Tên Khoa học: Acacia confusa Merr.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Đài loan tương tư; Tương tư, Keo tương tư, Tương tư thụTên khác:
Cây gỗ thường xanh, cao 20 - 25 m; vỏ thân màu xám, nứt dọc. Cuống dạng lá dày, hình lá tre hoặc hơi cong lưỡi hái, dài 6 - 10 cm, rộng 5 - 7 mm, màu xanh thẫm, hai đầu thuôn nhọn dần, mép nguyên, gân dọc mảnh cùng hướng với gân chính.
Cụm hoa hình đầu ở nách của cuống dạng lá, thường xếp 2 - 3 cái một; mỗi cụm hoa to 7 - 8 mm, có 23 - 25 hoa. Hoa nhỏ, đài có 5 lá đài hợp nhau thành hình chuông; tràng có 5 cánh hoa màu vàng nghệ; nhị nhiều; bầu dẹt có nhiều noãn. Quả mỏng, dài 4 - 5 cm, rộng 1 cm, chứa 4 - 5 hạt.
Phân bố ở Trung Quốc (Đài Loan, Phúc Kiến, Quảng Tây), Philippin và Inđônêxia, Thái Lan. Tại Việt Nam trồng thành rừng ở Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hoá vào tới Quảng Trị.
Cây ưa sáng, chịu hạn, dễ trồng, sinh trưởng nhanh.
Mùa hoa tháng 5 - 6; mùa quả tháng 7 - 9.
Cây cho gỗ trung bình; gỗ mịn, chịu ẩm, chịu mối mọt, ít nứt nẻ, có thể dùng trong xây dựng và đóng đồ dùng thông thường. Hoa chứa tinh dầu thơm; vỏ chứa tanin. Cây được trồng để cải tạo đồi trọc và làm cây che bóng cho các loại cây khác, có tác dụng bảo vệ đất chống xói mòn, giữ nước trong đất.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), cành lá non và hạt được dùng nấu nước rửa mụn nhọt lở loét.