Tên Khoa học: Adinandra integerrima T. Anders. ex Dyer in Hook. f.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Sum nguyên; Sum lông; Sum; Hồng đạm lá nguyên, Ngầu nền xàTên khác:
Cây nhỡ cao 10 - 15m. Chồi, cuống lá, mặt dưới lá có lông nhung hay lông mềm. Lá dài 5 - 10cm, hình trái xoan hay thuôn - ngọn giáo, có khi tù ở đầu, nhọn sắc ở gốc, hơi có răng, dai; gân ít rõ; cuống lá dài 4 - 7mm.
Hoa mọc đơn độc ở nách lá, có cuống, đồng trưởng có chiều dài rất không đều, 12 - 45mm, lá bắc con 2, dễ rụng. Lá đài 5, có tuyến và ráp mặt ngoài, không đều, dài 9 - 11mm, màu đỏ tía ở mặt trong. Cánh hoa 5, màu trắng, lợp, cao 15mm. Nhị 18 - 30, trên 2 - 3 dãy, có lông nhung, chỉ nhị dày, ngắn hơn bao phấn. Bầu có 4 - 5 ô; vòi nhụy có lông ở gốc; đầu nhụy chia 4 - 5 thùy.
Quả hình cầu đường kính 8mm, mang các lá đài tồn tại và cả những phần còn lại của vòi nhụy; hạt hình trái xoan, dẹp, có vỏ cứng và dày; áo hạt to, màu đen.
Loài của Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaixia, Inđônêxia. Ở Việt Nam, có gặp từ Quảng Trị, Quảng Nam, Kon Tum vào Lâm Đồng.
Cây mọc trong các rừng thứ sinh.
Lá cây được dùng trong dân gian làm thuốc trị bong gân và rắn cắn