Tên Khoa học: Aidia henryi (E. Pritz.) YamazakiTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Găng HenryTên khác:
Cây nhỡ cao 4 - 5m, không lông; nhánh non màu nâu sẫm, bị nén dẹt, rồi phủ vỏ xám và tròn. Lá dài 9 - 13cm, rộng 2,5 - 4,5cm, hình bầu dục rộng nhiều hay ít hoặc thuôn - ngọn giáo, đầu có đuôi, nhọn tù, gốc nhọn, bóng; gân bên 5 - 6 đôi, mảnh; cuống lá dài 6 - 8mm; lá kèm dài 2mm, hình trái xoan, sớm rụng.
Cụm hoa xim ở nách lá; trục chính dài 1 - 4mm; trục thứ cấp dài 2 - 3mm hoặc không có; hoa như làm thành bó ở ngọn một cuống chung; lá bắc nhỏ. Hoa xếp nhóm 3 - 6, cuống dài 3 - 6mm, hoa màu trắng. Lá đài 4, không lông, ống dài 3mm, thắt ở đoạn giữa, hình chuông ở đỉnh, không lông; cánh hoa 4, dài 9mm, ống dài 3mm, có lông nhung ở họng; nhị 4, đính trên họng tràng, thò ra ngoài; bầu 2 ô, vòi nhụy và đầu dài 12mm; đầu nhụy hình con thoi, nhọn; noãn nhiều.
Quả mọng cao và rộng 6 - 7mm, hình cầu; hạt 7 - 9, cao 4mm, dẹt, có góc, màu đen.
Loài của Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam. Ở Việt Nam có gặp tại Lào Cai và Hà Tây.
Cây mọc ở rừng vùng núi, ở độ cao trên 1300m, trên núi đá.
Ra hoa tháng 4, có quả tháng 10.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), thân và lá được dùng làm thuốc trị đòn ngã tổn thương và gãy xương.