Tên Khoa học: Alangium salviifolium (L.f.) WangerinTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Quăng lông; quăng; thôi chanh lá sôn; Quăng; thôi chanh lá sônTên khác: Grewia salviifolia L.f.; Alangium hexapetalum Lam.; A. salviifolium var. hexapetalum (Lam.) Wangerin;
Cây nhỡ có nhánh có khi có gai. Lá nguyên, hình bầu dục hay xoan ngược, dài 10 - 20cm, dày, dạng màng, khá dai, rất nhẵn ở mặt trên, có lông mềm nhiều hay ít ở mặt dưới, tròn ở gốc, thót lại dần dần và có mũi cứng rõ hay không; cuống lá ngắn, dài 0,6 - 1,2cm, có lông hay nhẵn.
Hoa xếp thành cụm 3 - 5 cái ở nách lá. Quả hạch dạng bầu dục hay dạng trứng, hơi hẹp, dài 15 - 20mm, có cạnh lồi khi khô, bao bởi các thùy của đài, màu tím rượu vang, nạc, thơm.
Phân bố ở Ấn Độ, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Ở Việt Nam, có gặp ở Lạng Sơn, Phú Thọ, Ninh Bình tới Khánh Hòa, Đồng Nai.
Cây mọc trên núi đá vôi, trong rừng.
Mùa quả tháng 4 - 5.
Gỗ tốt và dai. Quả ăn được, có vị chua và chát.
Ở Ấn Độ, vỏ rễ được dùng trị sốt và bệnh ngoài da, cũng dùng làm thuốc chống nôn mửa. Ở Thái Lan, vỏ thân dùng trị hen suyễn và trị ỉa chảy; gỗ được xem là bổ, dùng trị bệnh trĩ; quả dùng làm thuốc lợi trung tiện và trừ giun. Ở Campuchia, vỏ và rễ được dùng làm thuốc trừ giun, gây xổ, lợi tiểu, dùng chữa phong cùi, giang mai và chống các loại độc.