Tên Khoa học: Amranthus viridis L.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Dền cơmTên khác:
Cây thảo nhỏ, cao đến 80cm, đứng hay nằm; ở gốc thường có một nhánh to, cong; thân to đến 5mm, không lông, không gai. Phiến lá xoan tròn dài, có hình bánh bò, dài 3 - 6cm, rộng 1,5 - 3cm, đầu tù, có khi lõm, không lông; cuống dài đến 10cm.
Chùy hoa ở ngọn hay bông ở nách lá; hoa có 3 lá đài, 3 nhị, 2 - 3 đầu nhụy. Quả bế nhăn, chứa 1 hạt nâu đen, bóng, to 1mm.
Có ở tất cả các vùng nhiệt đới, từ bờ biển cho tới độ cao 1000m. Ở Việt Nam cũng gặp phổ biến.
Cây mọc ở đất hoang, dọc đường đi và cũng được trồng làm cây cảnh, cây rau.
Cành lá rau dền cơm chứa các thành phần dinh dưỡng tính theo g%: nước 84,5; protein 3,4; glucid 1,4; xơ 1,6 và theo mg%: caroten 10,5; vitamin B2 0,36; vitamin PP 1,3 và vitamin C 63.
Dền cơm được dùng làm rau xào hay luộc ăn nếu xào thì lượng vitamin C ít hao tổn hơn luộc), có tác dụng dưỡng sinh. Dân gian không ăn rau dền cơm với tiết canh (lợn, vịt) vì sẽ bị tháo dạ đi tiêu chảy.
Rễ và toàn cây dền cơm cũng được dùng làm thuốc trị lỵ trực trùng, viêm trường vị cấp và mạn. Dùng ngoài lấy rễ tươi giã nát, lấy nước chiết uống và bã đắp trị rắn cắn.
Ở Ấn Độ, người ta dùng lá trị bò cạp đốt và toàn cây trị rắn cắn.
Ở Vân Nam (Trung Quốc), toàn cây được dùng trị lỵ trực trùng, viêm ruột, viêm vú, lở trĩ và sưng đau.