Tên Khoa học: Angelica dahurica (Fisch. ex Hoffm.) Maxim.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Bạch chỉ; Hương bạch chỉ; hàng châu bạch chỉTên khác: Callisace dahurica Fisch. ex Hoffm.;
Cây thảo cao 0,5 - 1m hay hơn, sống lâu năm. Thân hình trụ, rỗng, không phân nhánh. Lá to có cuống, phần dưới phát triển thành bẹ ôm lấy thân; phiến lá xẻ 2 - 3 lần lông chim, mép khía răng, có lông ở gân lá mạt trên.
Cụm hoa tán kép mọc ở ngọn. Hoa nhỏ màu trắng. Quả bế, dẹt.
Loài của Triều Tiên, Nhật Bản và Liên bang Nga, được trồng nhiều ở Trung Quốc. Việt Nam cũng nhập trồng.
Ở nơi có cây này mọc, người ta gặp chúng trên các bờ sông và các lùm bụi. Ở Việt Nam, cây mọc tốt cả ở miền núi và đồng bằng.
Mùa hoa tháng 5 - 6; có quả từ tháng 7.
Trong cây, chủ yếu là trong rễ củ có tinh dầu, nhựa, chất angelicotoxin và nhiều chất khác. Chất angelicotoxin có màu vàng, vị đắng, có tính chất kích thích.
Rễ củ của cây bạch chỉ dùng làm thuốc chữa cảm sốt, sổ mũi, nhức đầu, đau răng, phong thấp, nhức xương, bạch đới. Ta có sản xuất thuốc Khung chỉ gồm 2 vị chính là Xuyên khung và Bạch chỉ dùng chữa nhức đầu và cảm mạo.
Bạch chỉ còn được dùng làm thuốc cầm máu trong các chứng đại tiện ra máu, chảy máu cam, mụn nhọt, mưng mủ, viêm tuyến vú…