Tên Khoa học: AsclepiadaceaeTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Thiên lýTên khác:
Đa số là thân leo hay bò, một ít cây bụi, có nhựa mủ trắng. Lá đơn, nguyên, mọc đối, không có lá kèm.
Cỏ hay cây bụi, có khi leo, thường có nhựa mủ, có khi nạc. Lá mọc đối, ít khi mọc vòng hay mọc so le, không có lá kèm. Hoa lưỡng tính, đều, đài xẻ 5, tràng hợp thường hình chuông hay hình bánh xe, có tiền khai van hay vặn, có phần phụ có hình dạng thay đổi; 5 nhị dính thành ống bao chặt lấy bầu, bao phấn 2 thùy, tận cùng bởi phần phụ dạng màng, chứa hạt phấn dính từng đôi hay bốn cái thành khối (khối phấn) treo vào những gót phấn, xen kẽ với các bao phấn, bầu gồm 2 lá noãn rời hay sít nhau lúc còn non, đầu nhụy tận cùng bởi một khối dày, có 5 góc xen kẻ với các bao phấn, quả kép gồm 2 đại chứa nhiều hạt. Hạt có mào lông, có nội nhũ nạc.
Thế giới có 290 chi và 2000 loài, phân bố chủ yếu ở vùng Nhiệt đới, ít ở vùng Cận nhiệt đới và Ôn đới.
Việt Nam có gần 50 chi và khoảng 110 loài.
Phân loại: Có 2 phân họ: Periplocoideae và Cynanchoideae. Phân họ sau có 4 tông: Asclepieae, Secamoneae, Tylophoreae và Gonolobeae. Họ này gần với Apocynaceae nhưng tiến bộ hơn bởi có cấu trúc bộ nhị chuyên hóa.
Giá trị kinh tế: Nhiều loài làm cảnh (Telosma cordata) và làm thuốc (Streptocaulon juventas).