Tên Khoa học: Balanophora cucphuongensis N.T. BanTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Dó đất cúc phương; Củ đỏ, Xà côTên khác:
Đặc điểm nhận dạng: Cỏ mập không diệp lục, cao 8-15 cm, ký sinh trên rễ; “củ” sần sùi, không có mụn hình sao. Thân khí sinh (là cuống cụm hoa) mang 6-10 lá dạng vảy; phiến lá hình mũi mác, cỡ 1,5-2 x 1-1,5 cm. Hoa đơn tính khác gốc, họp thành bông nạc; cả cụm hoa đực và cụm hoa cái đều hình trứng hay hình đầu. Hoa đực có cuống rõ; bao hoa gồm 3 mảnh đều nhau; khối phấn bị ép ngang. Hoa cái mọc ở xung quanh chân của vảy bảo vệ; vảy hình trứng cụt đầu; 1 vòi nhụy. (Ảnh 81).
Sinh học và sinh thái: Ra hoa tháng 10-12 (và chỉ khi ra hoa mới dễ phát hiện). Mọc rải rác trong rừng nguyên sinh cây lá rộng vùng núi đá vôi, ở độ cao 200-300 m. Sinh sản vô tính (tái sinh bằng cách đẻ nhánh).
Phân bố:
- Trong nước: Mới thấy ở Ninh Bình (Cúc Phương).
- Thế giới: Chưa biết.
Giá trị: Loài có lẽ là đặc hữu của miền Bắc Việt Nam. Nguồn gen hiếm và rất độc đáo, đặc trưng bởi hoa đực có cuống và bao hoa gồm 3 mảnh (khác tất cả các loài Balanophora đã biết ở khu vực Đông Nam Á).
Tình trạng: Khu phân bố rất hẹp (mới chỉ gặp ở khu vực Bống, thuộc Vườn Quốc gia Cúc Phương), mọc trên núi đá vôi, số lượng cá thể gặp rất ít (không đạt tới 250 cá thể). Dễ bị rủi ro, bị lâm vào tình trạng nguy cấp.
Phân hạng: EN D1.
Biện pháp bảo vệ: Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "hiếm" (K). Không xâm hại các cây còn sót lại ở nơi phân bố. Nghiên cứu thêm về các đặc điểm sinh học, nhằm bảo tồn ngoại vi (Ex situ) có hiệu quả.
Tài liệu dẫn: SĐVN(2007): 126;