Tên Khoa học: Bauhinia bracteata (Benth.) Baker, 1878 (CCVN, 1:1078)Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Dây cánh dơi; Dây mấu; Bo rừng, Mấu đỏ, Móng bò rừng.Tên khác: Phanera bracteata Benth. 1852 (CCNVN, 1:816). - Bauhinia harmandiana Pierre ex Gagnep. 1912 (FGI, 2:128; CCNVN, 1:819). - B. nhatrangensis Gagnep. 1952 (CCNVN, 1:820);
Dây leo to có móc xoắn ốc. Nhánh gãy qua gãy lại, các nhánh non có lông màu xám rồi nhẵn. Lá có lá kèm khá lớn hình mắt chim, sớm rụng; cuống lá dài 1 - 7cm; phiến hình trái xoan đến tròn, chia đôi đến 1/3, dài 3 - 15cm, rộng 5 - 14cm, hình tim ở gốc, với các thùy hình tam giác, tù, nhẵn ở mặt trên, có lông tơ mịn ở trên các gân ở mặt dưới; gân 9 - 11.
Cụm hoa chùm hay chùy ở bên và ở ngọn, nhiều hoa, có lông mịn xám. Lá bắc có kích thước thay đổi. Cuống hoa 4 - 7cm, mang những lá bắc con ở gần giữa cuống, dạng lá bắc nhưng hẹp hơn. Nụ hoa nhọn, có lông xám. Đài hoa có 5 thùy gập. Cánh hoa màu vàng lục, gần bằng nhau, thùy dạng mo mép uốn lượn, 5 - 13mm, móng khoảng 15mm. Nhị sinh sản 1 - 3, nhị tiêu giảm 5 (-7). Bầu có lông nhung màu nâu. Quả mở, dẹp, màu nâu sẫm, 15 x 5 cm, thót lại ở gốc.
Phân loài của Nam Mianma và các nước Đông Dương. Ở Việt Nam, cây mọc từ Lạng Sơn, Hà Nội qua các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên vào tới An Giang, Kiên Giang và Cà Mau.
Cây mọc ven rừng rậm, trong rừng thưa, dọc đường đi quanh các làng từ vùng thấp cho đến vùng cao, chủ yếu những nơi chịu ảnh hưởng của gió mùa.
Có thể trồng làm cảnh. Thân cây được dùng làm thừng, làm dây cột, bện lưới. Ở Campuchia, vỏ cây được dùng hãm lấy nước uống giải độc khi bị ngộ độc do ăn cá tréi pralung; nước sắc thân dùng trị ỉa chảy.