Tên Khoa học: Canarium album (Lour.) Raeusch.Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Trám trắng; Cà na trắngTên khác: Pimela alba Lour.;
Cây cao tới 10 - 12m hoặc hơn, thân tròn thẳng. Lá kép có 3 - 6 đôi lá chét, mặt trên màu xanh nhạt, mặt dưới xanh đậm, cả hai mặt đều không có lông.
Hoa mọc ở ngọn cành; lá bắc con hình vẩy. Cụm hoa chùm kép. Hoa đơn tính; hoa đực có 6 nhị; hoa cái có bầu phủ lông nâu với vòi nhụy ngắn và đầu nhụy chia 3 thùy. Quả hạch nhọn hai đầu, màu vàng nhạt, hạch dày, nhẵn, 3 ô.
Phân bố ở các nước Đông Dương và Trung Quốc. Ở nước ta, có gặp từ các tỉnh phía Bắc, nhiều nhất ở Quảng Bình, Thái Nguyên, Phú Thọ… vào tới Tây Ninh và An Giang.
Cây mọc hoang ở rừng nguyên sinh và thứ sinh trên đất ẩm hoặc hơi khô, ở độ cao từ 500m trở xuống. Thường mọc lẫn với các loài cây lá rộng khác như lim xanh, lim xẹt, xoan đào, ngát, nhưng cũng có khi mọc thành loại hình trám chiếm ưu thế. Ưa sáng, mọc nhanh. Tái sinh bằng hạt mạnh trong rừng thứ sinh có tán che.
Ra hoa tháng 1 - 2, quả chín tháng 6 - 7.
Gỗ dùng để xẻ ván, làm nhà, đóng đồ thông thường, làm củi.
Nhựa trám làm hương, chế tinh dầu trám và tùng hương dùng trong công nghiệp sơn và in. Hạt dùng để ép dầu.
Quả trám chín dùng để ăn, muối làm ô mai.
Rễ, lá và quả được sử dụng làm thuốc. Thường dùng chữa: 1. Sưng hầu họng, sưng amygdal; 2. Ho, nắng nóng khát nước; 3. Viêm ruột ỉa chảy, lỵ; 4. Động kinh. Liều dùng 3 - 10g, dạng thuốc sắc.
Quả tươi trị ngộ độc cá thối. Khi dùng quả, bỏ hạt đi rồi nhai hay chiết lấy dịch để dùng. Hạt dùng trị giun và hóc xương. Vỏ dùng trị dị ứng sơn, đau nhức răng