Tên Khoa học: Helwingia himalaica Hook.f. & Thoms. ex C.B. ClarkeTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Lá dâng hoa hi mã lạp sơn; Thanh giáp; hen vin; ha huỳnhTên khác:
mọc cách; phiến lá thuôn, cỡ 11-13,5 x 1-3,5 cm; chóp lá thuôn nhọn, gốc lá hình nêm; mép có răng nhọn; gân bên 6-7 đôi; cuống lá mảnh, dài 1,5 cm. Hoa đơn tính khác gốc, mọc ở trên gân chính của diệp chi (cành dạng lá), mẫu 4; nhị xen kẽ với cánh hoa; bầu hạ, 3 ô. Quả hạch có cuống ngắn, hình trái xoan, cao 1 cm, khi chín màu đỏ.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa quả tháng 4-7. Mọc rải rác trong rừng nguyên sinh hoặc rừng thưa vùng núi đá vôi, ở độ cao 900-1600 m.
Phân bố:
- Trong nước: Lào Cai (San Ta Van), Hoà Bình (Mai Châu: Pà Cò).
- Thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc, Mianma.
Giá trị: Nguồn gen rất độc đáo vì có hoa mọc trên diệp chi (cành hình lá). Toàn cây dùng chữa phong thấp, đòn ngã tổn thương, gẫy xương, đa dạ dày, ho cảm cúm, kinh nguyệt không đều và trị sốt rét ác tính.
Tình trạng: Loài có khu phân bố chia cắt. Ở Việt Nam mới thấy ở các điểm: San Ta Van (Lào Cai), và Pà Cò (Mai Châu, Hoà Bình); số cá thể gặp rất ít. Loài bị khai thác để làm thuốc.
Phân hạng: EN B1+2b,c,e.
Biện pháp bảo vệ: Không chặt phá những cây trưởng thành còn sót lại ở các điểm phân bố, nhất là ở Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia- Pà Cò. Thu thập cây giống trồng trong vườn.
Tài liệu dẫn: CCVN, 2: 144; TĐCT: 1128.