Tên Khoa học: KinabaluchloaTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Tre lôngTên khác:
Kinabaluchloa K.M.Wong
Chi này đã được K.M.Wong phát hiện và mô tả lần đầu ở Malaixia vào năm 1993. Một loài của chi này đã được thu mẫu lần đầu ở Việt Nam là Tre lông Bidoup (Kinabaluchloa wrayi (Stapf) K.M.Wong) và tên Việt Nam của loài được đặt để nghi nhớ địa điểm tìm thấy ở Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà (Lâm Đồng).
Kinabaluchloa K.M.Wong: Tre lông. K.M.Wong. Kew Bull. 48 (3) (1993) 523.
Tre lông mọc cụm. Thân thẳng hay gần thẳng. Mo thân có phiến dạng dải hẹp, tai mo thấp và khó nhận thấy, ở đáy của mo có lông màu nâu tía và dài, khi mo rụng để lại vòng lớn ở đốt. Chồi ở đốt thường cứng; lá gốc của chồi đầu tiên có mép rời và có lông. Cành ở giữa thân thường dày, nhỏ và gần bằng nhau. Hoa phát triển ở đốt của cành mang lá. Cụm hoa giả. Bông giả 1-3 cm, phía đối diện bông giả có một lá bắc lớn dễ nhìn thấy, gồm 2-3 lá bắc không mang hoa, 2-3 lá bắc dạng bao chồi, một mày rỗng cao bằng mày ngoài, 1-2 hoa và một hoa bất thụ ở đỉnh; cuống hoa thuôn dài và có khớp rời ở phía dưới của mày ngoài; mày trong có 2 cánh thuyền (keel), ở đầu có dạng tròn, lõm hay vòm, không bao giờ chẻ đôi, mặt lưng có rãnh sâu; mày cực nhỏ 3 và thường xẻ thuỳ, mép có lông; chỉ nhị 6, rời, ở đỉnh có khía nhỏ; bầu hình trụ thon và thót dần ở đầu, có lông ở đầu; vòi nhuỵ 3, có lông, đầu nhuỵ xuất phát từ đỉnh của bầu.