Tên Khoa học: PoaceaeTên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Lúa; Hòa thảoTên khác: Graminae
Poaceae Barnh. 1895
Cây thảo hay gỗ dạng tre nứa. Thân tròn có dóng, đốt thường rỗng ở giữa. Lá xếp thành 2 dẫy 2 bên thân, đơn nguyên thường hình thước, có lưỡi nhỏ nằm giữa phiến và bẹ, gân song song.
Cụm hoa ở tận cùng, dạng chùy gồm nhiều bông nhỏ hợp lại. Mỗi bông nhỏ có nhiều vảy trống (vảy không chứa hoa = glume) hoặc vảy chứa 1 - ¥ hoa. Mỗi hoa gồm 1 lá hoa gọi là trấu ngoài (mảy nhỏ trên - lemma), 2 lá bao hoa ngoài dính lại gọi lá trấu trong (mày nhỏ dưới = palea), 2 lá hoa trong rời và rất bé gọi là trấu nhỏ (mày cực nhỏ = palea); 3 - 6 nhị; bầu trên thường có 2 vòi nhụy, xẻ nhiều, choãi ra 2 phía.
Thế giới có 700 chi, 10000, phân bố ở Toàn cầu
Việt Nam có 150 chi, 500 loài.
Phân loại: Họ này khá đồng nhất. Có 6 phân họ và trên 50 tông
Mối quan hệ họ Lúa với các họ khác không rõ. Bông chét phân biệt với tất cả các họ khác trừ Cyperaceae. Nhiều tác giả coi nó xuất phát từ Flagellariaceae. Từ tổ tiên ở trong rừng nó tiến dần ra sa van khô hạn, có thể từ họ hàng của Arundinoideae hiện nay. Từ đó cho ra hai nhóm lớn ở nhiệt đới hiện nay Chloridoideae và Panicoideae chúng cùng có họ hàng với Pooideae nhưng phân họ này thích ứng với điều kiện lạnh và xâm nhập về phương Bắc. Về thời gian xuất hiện căn cứ vào hạt phấn là vào cuối Crêta, căn cứ vào hoa như Stipa vào Oligoxen và căn cứ vào động vật ăn cỏ thì nó xuất hiện vào Mioxen.
Giá trị kinh tế: Nhiều cây lương thực quan trọng: Lúa, Mì, Ngô, Kê, Mạch, Cao lương, nguồn thức ăn quan trọng của động vật, nguồn cung cấp đường; cây dùng trong xây dựng như Tre, Nứa và là nguồn cây làm cảnh như Trúc đùi gà, Tre là ngà, Trúc vàng.