Tên Khoa học: Shorea falcata J. E. Vidal, 1962 (CCVN, 1: 550).Tên tiếng Anh: Tên tiếng Việt: Sao lá lệch; Sao lá phăngTên khác:
Đặc điểm nhận dạng: Cây gỗ nhỏ thường xanh, cao 10-12m; vỏ màu xám. Cành non, chồi ngọn, cuống lá và cụm hoa có lông hình sao màu xám tro. Lá dai, hình trứng thuôn, hơi cong hình mác, dài 8-10 cm, rộng 3-4 cm, đầu nhọn, nhẵn; gân bên 12-14 đôi, hơi cong về phía mép lá. Cụm hoa chuỳ, tán thưa, mọc ở nách lá hay đầu cành, dài 10-15 cm.Nụ hình trứng, thót ở đầu, dài 5 mm. đường kính 3mm, gần như không cuống. Hoa màu vàng. Đài dài 3,5 mm, phủ lông màu tro ở mặt ngoài. Cánh hoa màu vàng, có đốm đỏ ở mặt ngoài, phủ đầy lông ở phần không bị lợp, dài 6-7 mm. Nhị 50-70, có chỉ nhị dài gấp đôi bao phấn. Bầu dài 2 mm, phủ đầy lông màu hoe vàng; vòi nhẵn, dài 1,5 mm. Quả màu nâu, có 5 cánh; 3 cánh to, dài 3-5 cm và 2 cánh nhỏ.
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 6, mùa quả chín tháng 9-10. Mọc trong các rừng nhiệt đới thường xanh, thấp, trên các bãi và đụn cát đỏ ven biển, cùng với Sao lá tim (Hopea cordata) và một số loài cây gỗ khác. Cây chịu khô hạn. Tái sinh chồi khá tốt.
Phân bố:
- Trong nước: Mới chỉ tìm thấy ở các xã Xuân Hoà (huyện Sông Cầu, Phú Yên), Cam Hải Đông và Mỹ Ca (Huyện Cam Ranh, Khánh Hoà).
- Thế giới: Chưa biết.
Giá trị: Loài đặc hữu và nguồn gen hiếm của Việt nam, có khu phân bố hẹp. Cây có khả năng chịu nóng và hạn tốt nên có thể trồng trong các rừng phòng hộ ven biển và cây cung cấp củi đun cho nhân dân địa phương, vì khả năng tái sinh chồi sau khi chặt.
Tình trạng: Hiện nay môi trường sống đang bị suy giảm mạnh do rừng ven biển bị tàn phá. Số cây còn lại rất ít, nhưng cũng vẫn bị khai thác lấy củi.
Phân hạng: CR A1c,d.
Biện pháp bảo vệ: Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá " bị đe doạ" (T). Đã được nghiên cứu để gieo trồng ở Phú Yên. Cần bảo vệ các cây mẹ còn lại rất ít để làm cây giống.
Tài liệu dẫn: CCVN, 1: 550; SĐVN(2007): 250; SFGI, 1: 354; WLTT: 506.