Trong các năm 2000-2006, chúng tôi đã tiến hành điều tra nghiên cứu chi Mây tại các địa điểm khác nhau như Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tĩnh, Thừa Thiên-Huế. Chúng tôi cũng tiến hành nghiên cứu mẫu vật của chi Mây tại các bảo tàng thực vật ở trong nước (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (HN), Viện Sinh học nhiệt đới (HM), trường đại học Khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia Hà Nội (HNU)… và ở nước ngoài như viện Thực vật Côn Minh, Trung Quốc (KUN), Vườn Thực vật Missouri Hoa Kỳ (MO)…. Mẫu vật chủ yếu được thu tại các tỉnh của Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của chúng tôi là phương pháp so sánh hình thái. Các đặc điểm hình thái được quan sát bằng kính lúp. Tiến hành mô tả, ghi chép các đặc điểm. Các đặc điểm được so sánh với các mẫu vật khác và các tài liệu có liên quan ở trong và ngoài nước, từ đó định loại, xác định tên khoa học, mô tả loài, xác định các đặc điểm khác biệt với các loài gần gũi.
Calamus nambariensis Becc. - Mây nambarien
Becc. 1908. Ann. Roy. Bot. Gard. 11 (1): 433; T. D. Evans et al. 2002. Kew Bull. 57 (1):
53. - C. nambariensis var. yingjangensis S. J. Pei & S. Y. Chen, 1989. Acta Phytotax. Sin. 27 (2): 140; id. 1991. Fl. Reip. Pop. Sin. 13 (1): 99. - C. nambariensis var. alpinus S. J. Pei & S. Y. Chen, 1989. Acta Phytotax. Sin. 27 (2): 141; id. 1991. Fl. Reip. Pop. Sin. 13 (1): 100. - C. nambariensis var. xishuangbannaensis S. J. Pei & S. Y. Chen, 1989. Acta Phytotax. Sin. 27 (2): 141; id. 1991. Fl. Reip. Pop. Sin. 13 (1): 100. – C. nambariensis var. menglongensis S. J. Pei & S. Y. Chen, 1989. Acta Phytotax. Sin. 27 (2): 141; id. 1991. Fl. Reip. Pop. Sin. 13 (1): 99 - C. nambariensis var. furfuraceus S. J. Pei & S. Y. Chen, 1989. Acta Phytotax. Sin. 27 (2): 142; id. 1991. Fl. Reip. Pop. Sin. 13 (1): 100.
Cây leo, cao đến 20 m; đường kính của thân không bẹ 1-3 cm, có bẹ 1,5-6 cm. Lá dài 1,5-2,5 m, có sống lá kéo dài thành roi dài 1 m, xẻ thùy lông chim; thùy lá xếp thành nhóm, đôi khi xếp đều ở phía cuống; bẹ lá màu xanh, có gai màu xanh nhạt, đỉnh màu đỏ, các gai dài ngắn xếp xen kẽ nhau, gai dài nhất không qua 4 cm; gối rõ; thìa lìa không lông hay gai; cuống lá dài 8-20 cm; thùy lá hình mác, có kích thước 40-55 ´ 2,5-7 cm; gân mặt trên không có hay có gai thưa; mép có lông cứng. Cụm hoa dài 0,65-1,3 m, không có dạng roi, thẳng (hơi rủ nếu quá dài); cụm hoa đực phân nhánh 3 lần; cụm hoa cái phân nhánh 2 lần; nhánh con của cụm hoa đực dài 1 cm, mang 8 hoa. Quả hình bầu dục rộng, có kích thước 2,5 ´ 2 cm; vảy quả màu vàng nhạt, có rãnh sâu.
Loài Calamus nambariensis Becc. gần với loài C. platyacanthus Warb. ex Becc. nhưng khác ở thuỳ của lá xếp đều ở phía cuống, gai bẹ ngắn hơn 4 cm, quả hình bầu dục rộng.

Calamus nambariensis Becc.
1. bẹ lá; 2a. một phần lá (ở dưới); 2b. một phần lá (ở trên); 3. một phần cụm hoa; 4. quả (1, 2, 3. của T. P. Anh, 2007, vẽ theo mẫu V. X. Phương 6602, HN; 4. theo T. Evans, 2001)
Loc. class.: India, Assam.
Typus: Mann G.s.n. (holotype FI-B, isotype K).
Sinh học và sinh thái: Có quả vào các tháng 3-4. Mọc trong rừng thường xanh, ở độ cao 1400-1800 m so với mặt nước biển.
Phân bố: Tuyên Quang (Chạm Chu). Còn có ở Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Lào.
Mẫu nghiên cứu: Tuyên Quang (Chạm Chu), V. X. Phương 6602 (HN).
Giá trị sử dụng: thân mây to, có chất lượng rất tốt; có thể dùng để đan lát, làm đồ mỹ nghệ, có giá trị thương mại cao ở Trung Quốc.
Tài liệu tham khảo
1. Trần Phương Anh, 2004: Tạp chí Sinh học, 26(4A): 64-69. Hà Nội.
2. Trần Phương Anh, Nguyễn Khắc Khôi, 2005: Tạp chí Sinh học, 27(4): 50-51. Hà Nội.
3. Trần Phương Anh, Nguyễn Khắc Khôi, 2005: Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học sự sống: 45-46. Báo cáo khoa học, Hội nghị Khoa học Toàn quốc 2005. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
4. Evans T. D. et al., 2002: Kew Bull., 57: 1-84.
5. Evans T. D. et al., 2001: A field guide to the rattans of Laos PDR. Royal Botanic Garden, Kew.
6. Pei S. J. et al., 1991: Flora Reipublicae Popularis Sinicae, 13(1): 60-108. Science Press. (tiếng Trung Quốc).
Công trình được hỗ trợ về kinh phí của Chương trình nghiên cứu cơ bản.
Trần Phương Anh, Nguyễn Khắc Khôi
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
Tạp chí Sinh học 29(3)/9-2007