Theo các tài liệu, ở Việt Nam, từ trước đến nay chỉ ghi nhận có 1 loài là G. grossefibrosa (được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam). Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam loài G. argyrata (Lee & Wei) Lee, Wei & J. Dransf., cũng chính là loài chuẩn của chi. Mẫu vật được thu ở hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Như vậy, với ghi nhận này, ở Việt Nam chi Guihaia có 2 loài.
Guihaia J. Dransf. et al. - Hèo
J. Dransf. et al., 1985. Princeps, 29: 7; N. Uhl et J. Dransf. 1987. Gen. Palm. 187-188; S. J. Pei et al., 1991. Fl. Reip. Pop. Sin. 13(1): 14-17.
Typus: G. argyrata (Lee & Wei) Lee, Wei & J. Dransf.
Có 2 loài G. argyrata (Lee & Wei) Lee, Wei & J. Dransf. và G. grossefibrosa (Gagnep.) J. Dransf., Lee & Wei.
Khóa định loại các loài thuộc chi Guihaia đã biết ở Việt Nam
1A. Quả gần hình cầu; lá mặt dưới có rất nhiều lông màu xám trắng .... 1. G. argyrata
1B. Quả hình bầu dục; lá mặt dưới có chỉ có những vảy rải rác ....... 2. G. grossefibrosa
Dưới đây là phần mô tả loài bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam.
Guihaia argyrata (Lee & Wei) Lee, Wei & J. Dransf. - Hèo lá trắng.
Lee, Wei & J. Dransf. 1985. Principes, 29 (1): 9; S. J. Pei et al. 1991. Fl. Reip. Pop. Sin. 13 (1): - Trachycarpus argyratus Lee & Wei, 1982. Guihaia, 2 (3): 131.
Cây mọc thành bụi, cao 1 m, có đường kính 3-5 cm; thân bò, có những vết sẹo của lá rất dầy, thường bị bao bọc bởi các bẹ lá tồn tại. Lá xẻ chân vịt; bẹ hình ống, phân ra thành sợi dạng gai thẳng, sắc, màu nâu, dài 14 cm, rộng 1 cm; cuống lá dài 1 m; phiến lá có đường kính khoảng 20-60 cm, xẻ đến 3/4 hoặc 4/5, thành 26 thùy đơn (hiếm khi 2 nếp gấp); thùy lá rộng 2,5 cm, có đỉnh xẻ đôi rất rõ; mặt trên nhẵn, mầu xanh sẫm; mặt dưới có rất nhiều lông màu xám trắng. Cụm hoa dài 30-80 cm, phân nhánh 4 cấp; nhánh con rất mảnh, dài 5 cm, nhánh cụm hoa đực ngắn hơn và mảnh hơn. Hoa đực dài 1,5 mm; đài xếp lợp, rời đến tận gần gốc, có lông, lá đài hình tròn hay trứng, có kích thước 1 ´ 0,8 mm; tràng dài khoảng 1,2 mm, hợp ở gốc, đỉnh chia thùy tròn, nhẵn, rộng 0,8 mm; nhị 6, chỉ nhị hợp sinh với tràng. Hoa cái giống hoa đực nhưng tròn hơn; nhị bất thụ 6, nhỏ, dính với tràng; lá noãn 3, rời, nhẵn, hẹp dần thành vòi nhuỵ ngắn. Quả phát triển từ 1 lá noãn, gần hình cầu; núm nhuỵ tồn tại trên đỉnh, có đường kính 6 mm; vỏ ngoài màu xanh đen, có sáp; hạt có đường kính 4-5 mm, phôi nhũ đồng nhất.
Phân bố: Cao Bằng (Trà Lĩnh), Lạng Sơn (Hữu Lũng). Còn có ở Trung Quốc.
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa vào các tháng 5-6, có quả vào các tháng 10-11. Mọc dưới tán rừng nhiệt đới thường xanh mưa mùa ẩm, trên sườn núi đá vôi.
Mẫu nghiên cứu: Cao Bằng (Trà Lĩnh), D. K. Harder et al. DKH 4341 (HN) - Lạng Sơn (Hữu Lũng), Hà Tuế PA 151 (HN).

Guihaia argyrata (Lee & Wei) Lee, Wei & J. Dransf.
1. cành mang lá; 2. gốc lá; 3. một phần cụm hoa; 4. hoa đực bổ dọc; 5. quả. (hình vẽ theo mẫu DKH 4341, PA 151 [HN])
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, 1996: Sách Đỏ Việt Nam, phần thực vật: 344-345. Nxb. Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội.
2. Dransfield J., Lee S. K. & Wei F. N., 1985: Principes, 29(1): 3-12.
3. Phạm Hoàng Hộ, 2000: Cây cỏ Việt Nam, III: 401-427. Nxb. Trẻ, tp. Hồ Chí Minh.
4. Lecomte H., 1937: Flore Générale de L Indochine, 6: 994. Paris.
5. Pei S. J. et al., 1991: Flora Reipublicae Popularis Sinicae, 13(1): 14-17. Science Press (tiếng Trung Quốc).
Trần Phương Anh, Nguyễn Khắc Khôi
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
Tạp chí Sinh học 28(4)/ 12-2006