Trang chủ   Tin tức   Cơ sở dữ liệu    Đăng ký   Giới thiệu   Tìm kiếm: 
Infinite Menus, Copyright 2006, OpenCube Inc. All Rights Reserved.

Tương thích với

TIN TỨC > CÂY TRỒNG

Kỹ thuật trồng Mao trúc

Cập nhật ngày 23/9/2008 lúc 9:41:00 PM. Số lượt đọc: 4518.

Mao trúc thuộc nhóm trúc mọc tản, thân ngầm vừa sinh măng thân khí sinh vừa sinh măng thân ngầm, nhưng cây khí sinh thì không thể sinh măng hay thân ngầm, đây là một đặc điểm gây ra nhiều khó khăn cho việc nhân giống theo cách truyền thống. Thân ngầm và thân khí sinh hàng năm đều đổi ngọn một lần, do đó người ta căn cứ vào cấp số cành hoặc cấp thân khí sinh để xác định tuổi rất chính xác

Thông tin cơ bản

Tên thường gọi: Mao trúc
Tên khác: Trúc sào, Tre xiêm, Trúc lông, Diệp vĩ lông, Nam trúc, Miêu đầu trúc (trúc đầu mèo), Mâu đầu trúc (trúc mũi mác), Mạnh tông trúc
Tên tiếng Anh: pur - ivory bamboo
Tên khoa học: Phyllostachys pubescens Mazel ex H. de Lehaie
Thuộc họ Hoà thảo (Poaceae, phân họ Tre - Bambusoideae)

Tại Đài Loan và Nhật Bản, Mao trúc thường được gọi là Mạnh tông trúc. Cả hai nơi này đều lưu truyền một truyện thần thoại có nguồn gốc từ Trung Quốc lục địa: Thời xưa có chàng trai chí hiếu họ Mạnh tên Tông, giữa mùa Đông băng giá bà mẹ ốm nặng và chỉ ước ao một bát canh măng. Mạnh Tông vào rừng tìm kiếm nhưng khắp rừng tuyết phủ, chẳng có măng nào mọc. Chàng trai buồn bã ôm gốc trúc mà khóc, lòng hiếu thảo của chàng trai đã làm cảm động thần tiên, ở những chỗ mà nước mắt Mạnh Tông rơi xuống, băng tuyết đã tan, đất nứt ra và măng mọc lên. Người Đài Loan gọi măng Mao trúc mọc lên trong mùa Đông là Mạnh tông đông, đây là loại măng ngon nhất và đắt giá nhất trong các loại măng tre trúc. Sách lâm nghiệp Đài Loan khẳng định Mạnh tông là Mao trúc, mang tên Phyllostachys pubescens và được dẫn giống từ Trung Quốc lục địa từ nhiều thế kỷ trước. Chưa rõ Mạnh tông ở Nhật Bản là Mao trúc bản địa hay được dẫn giống từ Trung Quốc lục địa. Nhật Bản là thị trường nhập khẩu măng đóng hộp đứng hàng thứ 3 thế giới (sau EU và Hoa Kỳ), trong đó măng Mao trúc được ưa thích nhất.

http://farm1.static.flickr.com/93/254752643_7125297f08.jpg?v=0

(Mao trúc, ảnh theo farm1.static.flickr.com)

Giá trị kinh tế

Mao trúc thuộc nhóm trúc mọc tản, thân ngầm vừa sinh măng thân khí sinh vừa sinh măng thân ngầm, nhưng cây khí sinh thì không thể sinh măng hay thân ngầm, đây là một đặc điểm gây ra nhiều khó khăn cho việc nhân giống theo cách truyền thống. Thân ngầm và thân khí sinh hàng năm đều đổi ngọn một lần, do đó người ta căn cứ vào cấp số cành hoặc cấp thân khí sinh để xác định tuổi rất chính xác.

Cây Mao trúc thường cao 10-15m, cực đại tới 20m; đường kính từ 7-12cm, có khi tới 20cm; mình dày 5-10mm, đôi khi tới 15mm; lóng dài 20-40cm. Thân Mao trúc rất thẳng và tròn đều kể cả điểm nối với mấu cành, duy nhất có một vòng gờ nổi sát dưới bẹ mo, nhưng cũng rất dễ tiện phẳng, dùng máy bóc có thể bóc được một lớp ván cật trải rộng 30-50 cm, thậm chí rộng 60 cm. Đây là ván dán mặt rất cao cấp, dùng làm bề mặt ván sàn, màu trắng ngà, vân thớ đẹp, chịu mài mòn tốt. Phần ruột và ngọn còn lại làm nguyên liệu để sản xuất giấy cao cấp.

Mao trúc là nguyên liệu rất tốt, thậm chí là tốt nhất cho sản xuất chiếu trúc (bao gồm cả chiếu đan và chiếu quân cờ), cũng là nguyên liệu rất tốt cho sản xuất các đồ thủ công mỹ nghệ, đồ chơi ...

Giá trị quan trọng thứ hai của Mao trúc là măng rất ngon, sản lượng cao, lại có một vụ giữa mùa Đông nên giá rất cao. Măng Mao trúc dễ chế biến thành nhiều sản phẩm cao cấp khác nhau, hiện đang là sản phẩm xuất khẩu quan trọng của Hồ nam, Giang tây, Triết giang, Đài loan ... Hiện nay mỗi năm Trung Quốc xuất khẩu sang Nhật 150.000 tấn đồ hộp măng các loại, trong đó măng Mao trúc chiếm khoảng 75%. Măng Mao trúc rất mập, trọng lượng bình quân từ 1,5 - 2,5 kg/cái, khi chưa lộ khỏi mặt đất thường có màu vàng nhạt, lúc này măng ăn rất ngon, sau khi lộ khỏi mặt đất măng chuyển màu vàng nâu và càng ngày càng kém ngon. Thịt măng màu trắng, phần ăn được chiếm 54,6%, măng tươi có thể bảo quản trong nhiệt độ phòng khoảng 10 - 15 ngày, nhưng khi làm đồ hộp thường phải chế biến ngay sau khi thu hoạch càng nhanh càng tốt.
Rừng Mao trúc hướng măng có thể cho sản lượng măng bình quân hàng năm từ 7,5 - 11,5 tấn/ha. Rừng thâm canh có thể cho sản lượng 15 - 22,5 tấn/ha.

Mao trúc có thể gây trồng để lấy măng là chính hoặc lấy thân khí sinh là chính.

Tuy nhiên, khuyến cáo chung là nên trồng rừng Mao trúc để vừa lấy thân vừa lấy măng. Trong rừng Mao trúc tỷ lệ măng điếc (không mọc thành cây ) có thể lên tới 60 -70%, chủ yếu là do dinh dưỡng hữu cơ không đủ cung cấp. Nếu không khai thác tận dụng kịp thời, măng điếc tranh giành dinh dưỡng ảnh hưởng đến cây còn lại. Nếu chọn những măng mập nhất và tối ưu hoá mật độ và cấu trúc tuổi cây thì hiệu quả kinh tế có thể nâng cao gấp 3,5lần đến 5 lần.

Mật độ tối ưu 2500 - 2700cây/ha, trong đó cây tuổi 1 - 2 chiếm 30%, cây tuổi 3 - 4 chiếm 37%, cây tuổi 5 - 6 chiếm 30%, cây tuổi 7 - 8 chiếm 3%. Đến tuổi 7 chất lượng công nghệ Mao trúc đạt mức cao nhất và cây cũng không còn vai trò nuôi dưỡng đối với các thế hệ sau; đây được coi là tuổi khai thác hợp lý nhất đối với cây Mao trúc.

Có thể ước tính một cách khiêm tốn sản lượng thân khí sinh hàng năm khoảng trên 10tấn/ha với giá 0,6NDT/kg thu được 6.000NDT, sản lượng măng 5tấn/ha, giá 2NDT/kg thu 10.000NDT. Tổng thu 1 năm không dưới 16.000NDT, tương đương 30 triệu đồng/ha/năm và được thu hoạch nhiều chục năm sau. Đây thực sự là một con số hấp dẫn và thực tế đối với nhiều vùng núi cao.

Phân bố, khí hậu và đất trồng

Vùng Hoa nam là quê hương cây Mao trúc, phân bố tự nhiên 24 - 320 vĩ độ bắc, 102 - 122 kinh độ đông, bao gồm 16 tỉnh thành từ Vân nam - Quảng tây, Quảng đông, Vân nam, qua Hồ nam, Giang tây, Phúc kiến đến Triết giang, Hồ bắc ở phía Bắc.

Cao trình phân bố không thấp hơn 250m ở ranh giới phía nam (Quảng đông, Quảng tây, 240 vĩ độ bắc), không cao hơn 800m ở ranh giới phía bắc.
Mao trúc có thể sinh trưởng tại những vùng có nhiệt độ bình quân năm giao động giữa 12 -220C, lượng mưa bình quân năm 1200 - 2000mm.

Nhiệt độ bình quân năm tối ưu cho Mao trúc là 15 - 19oC, lượng mưa 1400 - 2000 mm và phân bố đều.
Khi nhiệt độ không khí bình quân tuần lên tới 100C, Mao trúc bắt đầu có hoạt động sinh trưởng.
Khi nhiệt độ không khí bình quân tuần lên tới 15 - 25oC, hỉệu suất quang hợp đạt giá trị cao nhất.
Khi nhiệt độ không khí bình quân tuần vượt quá 35oC, Mao trúc ngừng sinh trưởng.
Mùa đông không đủ lạnh cũng có thể ảnh hưởng đến ngủ đông và phát triển măng.

Nếu theo nguyên tắc xuống phía nam 1 độ vĩ phải đẩy cao trình lên 100m thì vùng núi phía bắc Việt Nam (21 - 220 độ vĩ) giới hạn thấp có thể gây trồng Mao trúc phải là 500 - 600m trở lên, vùng núi Nghệ an (19 - 200vĩ độ bắc) giới hạn thấp có thể gây trồng Mao trúc phải là 700 - 800m trở lên.
Tại Phúc kiến (24 - 260 vĩ độ bắc) cao trình tốt nhất để trồng Mao trúc là 500 - 800m, như vậy với miền núi phía bắc Việt Nam, cao trình tốt nhất để trồng Mao trúc nên là 800m trở lên, với Nghệ an nên là 1000m trở lên.

Tại vùng gây trồng Mao trúc lớn nhất là vùng đồi gò nam Trường giang, nhiệt độ cực hạn có thể lên tới 39 - 410C trong nhiều tuần, vì vậy gió Lào ở Tây bắc và Bắc trường sơn có thể không phải là nhân tố đáng lo ngại.

Mao trúc đòi hỏi chế độ mưa ẩm tương đối đều, ít nhất là đất đủ ẩm. Đặc biệt là mùa Xuân là mùa sinh măng thân khí sinh và mùa thu phát triển thân ngầm, Mao trúc đòi hỏi có độ ẩm cao. Nói chung các vùng núi cao phía bắc đèo Hải vân yêu cầu này dễ được thoả mãn.

Tại giới hạn nam của vùng phân bố, chọn đất trồng Mao trúc thường ưu tiên hướng dốc âm (hướng bắc), trồng tại nước ta càng phải coi trọng yếu tố này. Độ dốc nói chung không quá 300, tốt nhất là nhỏ hơn 250.

Nên chọn đất có tầng dầy 0,5m trở lên, tốt nhất là đất có tầng dầy 1,0m là giới hạn phân bố thân ngầm. Đất cần thoát nước, đủ ẩm (nên chọn vùng chân dốc dài), đất thịt nhẹ đến trung bình, ít đá tảng lẫn. Đất sét bí chặt hoặc hàm lượng cát quá cao, ngậm nước kém đều không phù hợp với Mao trúc. Đất giàu mùn, còn tính chất đất rừng rất thích hợp với trồng Mao trúc.

pH phù hợp với Mao trúc giao động từ 4,5 - 7,0, chân núi đá vôi, hoặc thung lũng vùng đá vôi, đất bồi tích ven sông suối có phản ứng thiên về trung tính đều phù hợp với Mao trúc.

Đặc điểm sinh học

Ở rừng Mao trúc trưởng thành , chỉ có thân ngầm mới sinh được măng thân ngầm và măng thân khí sinh. Mỗi năm chỉ phát sinh một đợt sinh măng thân khí sinh và một đợt sinh thân ngầm. Chồi măng thân khí sinh ngủ suốt mùa hè - thu, tới cuối tháng 10 lần lượt chuyển sang trạng thái hoạt động sinh trưởng khi nhiệt độ đất còn cao. Đến giữa mùa Đông trước tết âm lịch là thời kỳ lạnh nhất, măng bắt đầu tiếp cận mặt đất hoặc ló ra khỏi mặt đất và gặp không khí lạnh chúng chuyển sang trạng thái ngủ và tạo nên vụ măng đông. Sang mùa xuân khi thời tiết ấm trở lại nhiệt độ vượt qua 100 C, măng đông lại chuyển sang trạng thái hoạt động và tạo nên vụ măng xuân. Vụ măng xuân kéo dài từ tháng 3 đến đầu tháng 5, rộ nhất là trung tuần tháng 4.

Từ tháng 6 đến cuối tháng 9, khi phần lớn măng khí sinh đã trổ lá non, thân ngầm cũng bước vào giai đoạn sinh trưởng mạnh. Cuối thời kỳ này một số măng thân ngầm có thể lộ khỏi mặt đất, tuy kích thước nhỏ nhưng ăn rất ngon và bán được giá cao.

Với cây mới mọc từ hạt, từ khi nảy mầm cho đến 3 - 4 năm đầu tiên, quy luật phát sinh hoàn toàn khác. Các đợt măng khí sinh và thân ngầm phát sinh đồng thời và liên tục, không phân chia mùa vụ. Ngoài ra ở giai đoạn này, phần gốc thân khí sinh cũng có thể ra măng bao gồm cả măng thân khí sinh và măng thân ngầm. Đặc điểm này rất giống tập tính của Tre sặt và các loài trong chi Arundinaria. Tuổi càng cao thì khả năng đẻ măng liên tục và khả năng đẻ thân ngầm của thân khí sinh sẽ mất dần và chỉ còn thân ngầm là có khả năng đẻ măng khí sinh và măng thân ngầm.

Vì lẽ đó , khi có hạt giống, cần tích cực khai thác đặc điểm này để nhân nhanh số lượng cây con.

Măng đông thường bé nhỏ, sản lượng thấp nhưng rất ngon. Giá măng tươi tại Đài loan lên tới 5USD/kg. Khi khai thác măng đông thường phải dò tìm theo hướng thân ngầm để tìm vết nứt trên mặt đất và đào bới khai thác trước khi chúng lộ khỏi mặt đất. Nói chung việc khai thác măng đông thường kết hợp với chăm sóc rừng bao gồm cuốc xới toàn diện, bón phân, loại bỏ thân ngầm quá già.

Khai thác măng xuân cũng phải kịp thời, măng lộ khỏi mặt đất chất lượng sẽ kém.


So với tre vầu, tre róc thân ngầm Mao trúc có một số đặc điểm không hoàn toàn giống. Thân ngầm Mao trúc có thể chia làm 3 đoạn.

  • Đoạn cuống: Gồm 15 - 20 lóng, mỗi lóng dài từ 3 - 7cm, ruột đặc, không mắt, không rễ, hoàn toàn không thể dùng để nhân giống.
  • Đoạn thân: 15 - 20 lóng, đốt giữa 2 lóng có rễ mọc theo hướng phóng xạ ra mọi phía, mỗi đốt có một mắt ngủ( sinh măng khí sinh hoặc thân ngầm), mắt bố cục theo hình xoáy ốc trên trục thân ( không so le đối xứng hai bên như Tre vầu).
  • Đoạn ngọn: Có lớp mo bọc rất cứng và nhọn, khả năng đâm xuyên rất mạnh, lực đâm xuyên được tạo nên bởi hoạt động của mô phân sinh lóng trên tất cả các lóng đang tăng trưởng.

Nhịp độ tăng trưởng bình quân năm của thân ngầm Mao trúc khoảng 2 - 3 m (bằng 1/2 - 1/3 cây Vầu), đất tốt và tơi xốp có thể đạt đến 4 - 5m/năm.
Thân ngầm bắt đầu sinh trưởng từ giữa mùa hè ( tháng 5 - 6) và kết thúc sinh trưởng vào cuối mùa đông (tháng 11 - 12). Phải tới mùa đông năm sau, khi sinh khối đã tích luỹ đủ, mo đã rụng, rễ đã mọc thì các mắt sinh măng mới chuyển sang hoạt động để ra măng thân ngầm vào mùa hè năm thứ ba.
Sau khi kết thúc mùa sinh trưởng, tất cả ngọn thân ngầm đều thui chột và thối mục, vào mùa sinh trưởng thân ngầm tiếp theo từ cuối đoạn thân ngầm đó lại mọc ra 1 - 2 thân ngầm mới để thay thế.

Hiện tượng đổi ngọn ở thân ngầm và thân khí sinh diễn ra hoàn toàn giống Tre vầu, Tre róc

Rễ Thân ngầm mao trúc: Nếu gọi đoạn thân ngầm mới mọc là thân ngầm cấp 1 thì đoạn sinh năm trước là đoạn thân ngầm cấp 2, trước nữa là đoạn cấp 3 - 4 - 5 -6. Chỉ đoạn thân ngầm cấp 2 - 3 -4 là có khả năng sinh măng, trong đó đoạn thân ngầm cấp 2 sinh măng nhiều nhất, măng mập nhất, đó chính là đoạn cần quan tâm chăm sóc để năng cao kích thước thân khí sinh và sản lượng măng. Các đoạn thân ngầm già hơn tuy có thể sinh măng nhưng tỷ lệ măng điếc rất cao hoặc thường tạo nên cây kích thước nhỏ.

Vấp phải đá cứng hoặc đất lầy, ngọn thân ngầm có thể bị gẫy hoặc thui, ưu thế đỉnh sẽ bị loại trừ như cây thân gỗ bị bấm ngọn, nhiều mắt tiếp giáp vết gẫy sẽ bật chồi và mọc thành 3 - 5 thân ngầm mới. Tuy nhiên , chỉ 1 - 2 thân ngầm trong số đó có giá trị tái sinh, những thân ngầm nhỏ yếu không có khả năng bật chồi thành măng.

Về quan hệ nuôi duỡng, ở Tre trúc hay hoà thảo nói chung, dinh dưỡng hữu cơ cho tăng trưởng phần thân non hay thế hệ non đều do các phần thân già hay thế hệ già cung cấp.

Trong khi ở các loài tre trúc mọc bụi (như Tre Điền Trúc, Bát Độ, Lục Trúc..) tăng trưởng của thế hệ mới bao gồm cả phần củ và phần thân khí sinh được thực hiện trong một đợt bắt đầu từ mùa hè và hoàn tất tăng trưởng kích thước vào mùa đông với nguồn cung ứng hữu cơ từ cây mẹ. Đến mùa Xuân năm sau thế hệ măng này đã đủ lá, đến hè khi thế hệ măng mới xuất hiện thì nguồn cung ứng hữu cơ của cây mẹ và của bản thân tự sản xuất ra đã đảm bảo cho chúng đạt giới hạn cao về tỷ trọng, từ đó đã hoàn toàn có thế gánh vác vai trò cung ứng hữu cơ cho thế hệ măng mới. Vì vậy ở rừng Tre trúc hướng măng mọc bụi, để đạt năng suất cao phải tôn trọng nguyên tắc "cháu không thấy mặt bà", nghĩa là khi thấy lứa măng mới lộ ra phải lập tức chặt bỏ thế hệ "cây bà".

Quan hệ nuôi dưỡng ở rừng Mao trúc không giống như vậy. Thân ngầm và thân khí sinh thay phiên nhau tăng trưởng gần như suốt năm. Sau khi nhờ nguồn cung ứng hữu cơ của các thế hệ trước để lớn hết kích thước và ra đủ lá, hoạt động quang hợp của thế hệ mới chỉ đủ để tăng tỷ trọng bản thân và nuôi thân ngầm đang tăng trưởng trong mùa hè, phải đến mùa xuân năm tiếp theo, sau khi thay lá non thế hệ này mới góp phần nuôi thế hệ sau.
Vì vậy nếu ở Tre trúc mọc bụi là mẹ nuôi con thì ở Mao trúc là bà nuôi cháu và cụ nuôi chắt. Vì vậy hiện tượng một năm được mùa kèm theo một năm mất mùa măng là quy luật tất yếu, khắp Trung quốc đều lấy 2 năm làm một độ tuổi cho Mao trúc. Đặc điểm này về quan hệ nuôi duỡng cũng chi phối nhiều đến kỹ thuật gây trồng Mao trúc bằng thân ngầm.

Mao trúc non mọc từ hạt có thể sinh măng liên tục suốt mấy năm đầu không phân biệt mùa vụ và gốc thân khí sinh cũng có thể sinh măng thân ngầm và thân khí sinh, quan hệ nuôi dưỡng gắn nhiều thế hệ với nhau. Vì vậy nếu kinh nghiệm chưa đầy đủ, cần thận trọng khi tách một bụi trúc lớn thành nhiều bụi nhỏ.

Kỹ thuật gây trồng Mao trúc bằng cây con thực sinh

Theo truyền thống thì việc gây trồng các loại trúc mọc tản (Tản sinh) nói chung hay Mao trúc nói riêng đều thực hiện bằng cách nhân giống vô tính, tức là dùng một đoạn thân ngầm (có hoặc không có thân khí sinh kèm theo) để trồng.

Hệ rễ mao trúc: Gây trồng bằng phương pháp này có ưu điểm là rừng trúc sớm được thu hoạch (có thể cho thu hoạch măng sau 3-4 năm) nhưng do tốn nguyên liệu và hại rừng trúc vì phải lấy đoạn thân ngầm dài 40-50 cm, tỷ lệ sống thường thấp (40-50%) nên nay đã ít dùng và người ta chuyển sang trồng rừng bằng cây thực sinh (cây gieo từ hạt) khắc phục được các nhược điểm của phương pháp truyền thống do đó đảm bảo đạt hệ số nhân giống cao, vốn đầu tư thấp do giá cây giống rẻ, vận chuyển dễ dàng, cây đẻ nhánh khoẻ, tuổi thọ cao, tỷ lệ sống khi trồng rừng lên tới 90% nếu tuân thủ đúng các yêu cầu kỹ thuật. Nhược điểm duy nhất đối với trồng rừng Mao trúc bằng cây thực sinh là thời gian cho khai thác sản phẩm lâu. Thường phải sau 4-5 năm mới cho thu hoạch măng, và sau 7-8 năm mới bắt đầu cho thu hoạch thân khí sinh. Vì những lý do nói trên trong bài viết này chúng tôi chỉ đề cập chủ yếu đến kỹ thuật gây trồng Mao trúc từ cây hạt.

Kỹ thuật gieo ươm Mao trúc: Mao trúc rất ít ra hoa, hàng chục, hàng trăm năm mới ra hoa một lần, có thể ra hoa từng đám từng cây hoặc từng cành cá biệt. Nói chung Mao trúc ra hoa không kéo theo hiện tượng chết cả rừng như một số loài Tre trúc mọc bụi. Mao trúc ra hoa mùa xuân, hạt chín mùa thu.

Hạt mao trúc: được thu hái vào tháng 9, 10. Gieo ngay trong tháng 11-12 thì tỷ lệ nảy mầm cao. 1 kg hạt Mao trúc thường có 35.000 đến 37.000 hạt.
Nếu không kịp gieo phải bảo quản khô và lạnh 0 - 50C, thời hạn bảo quản nửa năm đến 1 năm. Hạt đạt yêu cầu phải có trọng lượng 1000 hạt 20g trở lên và tỷ lệ nảy mầm 30% trở lên.

Trước khi gieo cần thanh trùng và thúc mầm. Có thể thanh trùng bằng thuốc tím nồng độ 0,05% (0,5g/lít nước) ngâm hạt 12 giờ, hoặc nồng độ 0,3% (3g/lít nước) ngâm hạt 2 - 4 giờ. Cũng có thể dùng dung dịch ôxy già (H2O2) nồng độ 3% (30cc/lít nước) ngâm hạt 1 - 2 giờ hoặc dung dịch CuSO4 nồng độ 2% (20g/lít nước) ngâm hạt 5 phút.

Sau khi thanh trùng cần tráng rửa nước sạch nhiều lần rồi chuyển sang thúc mầm. Có thể thúc mầm bằng nước ấm nhiệt độ nước ban đầu 30 - 400C (2 sôi 3 lạnh) hoặc dung dịch IBA nồng độ 100mg/lít để nâng cao tỷ lệ nảy mầm và hạn chế hiện tượng thối rễ. Thời gian ngâm thúc mầm từ 12 - 24 giờ. Sau khi thúc mầm cần vớt hạt để ráo nước trước khi gieo.

Làm luống rộng 1,2 m, cao 0,2 m ở chỗ cao ráo thoát nước, tránh chuột, chim và côn trùng phá hoại - Đất gieo phải tơi, mịn, không dùng đất có cỏ hoặc hạt cỏ dại - Mỗi kg hạt cần 20-24 m2 mặt luống.

Luống gieo mao trúc: Trước khi gieo hạt cần thanh trùng đất bằng thuốc tím hoặc Tốp - sin nồng độ 0,1%, sau 24 giờ phải tráng rửa bằng nước sạch với lượng nước gấp đôi lượng dung dịch thuốc thanh trùng.

Gieo ươm: Khi gieo hạt cần chú ý rắc hạt đều tay để tránh chỗ dày chỗ mỏng, gieo xong phủ một lớp đất mịn dày khoảng 1,0-1,5 cm lên hạt đã gieo, tưới nước cho đủ thấm ướt khắp luống.

Nếu trời nắng, phải dùng rơm hoặc lưới che râm phủ luống cho khỏi quá nóng. Nếu trời lạnh dưới 180C phải phủ một lớp nilon giữ nhiệt cho hạt nảy mầm.

Duy trì nhiệt độ và độ ẩm như thế khoảng 12-18 ngày thì hạt bắt đầu nảy mầm, chồi lên mặt đất. Lúc này cần làm cỏ và tưới nước phân loãng ít nhất 1 lần/tháng. Chú ý chống chuột và sâu hại.

Nhất thiết phải định kỳ phun Booc Đô nồng độ 1: 1: 200 (1kg vôi 1kg đồng xanh và 200 kg nước) để chống nấm bệnh phá hại mầm non.

Cấy chuyển: Cây mạ mao trúc 2 tháng. Đến tháng 2 tháng 3 năm sau, tức là gieo hạt được 4-5 tháng, lúc này cây con đã cao 8-15 cm và bắt đầu chuẩn bị sinh thân ngầm thì phải cấy chuyển, tức là giãn ra với mật độ từ 75.000 đến 100.000 cây/ha. Nếu là đất dốc thì trồng theo rạch, nếu đất bằng thì cần đánh luống, luống rộng 1,2 m, cao 0,2 m và phải chú ý tiêu nước tốt vì Mao trúc không chịu được ngập úng. Ngoài ra cũng cần chú ý tưới nước nếu gặp hạn, làm cỏ, tưới phân và phòng trừ sâu hại.

Sau khi cấy chuyển, Mao trúc sẽ liên tục sinh thân ngầm và thân khí sinh, thế hệ sau lớn hơn thế hệ trước, sau năm đầu cây thường cao 20-40 cm, đường kính thân ngầm 0,2-0,3 cm, tuy đã có thể đem trồng nhưng tỷ lệ sống không cao.

Tốt nhất là thực hiện xén ngọn đến chiều cao 30cm để kích thích đẻ nhánh và tiếp tục nuôi thành cây 2 - 3 năm tuổi nhằm đạt tỷ lệ sống cao, cây phát triển nhanh sau khi trồng.

Thông thường cây giống được nuôi thêm 1 năm nữa (tức là đến tháng 11 năm sau) khi cây trúc đã có từ 3-8 thân khí sinh có chiều cao 50-150 cm và thân ngầm có đường kính 0,4-1,0 cm là đủ tiêu chuẩn để trồng rừng.

Chuẩn bị đất trồng rừng

Nếu đất có nhiều cỏ dại, cây bụi thì nên phát đốt toàn bộ trước khi làm đất.

Nếu có điều kiện, nên cày bừa đất trên toàn bộ diện tích với độ sâu trên 20 cm, sau đó mới đào hố trồng cây theo cự ly cần thiết.

Có thể làm đất theo băng, san băng rộng 1,2 - 1,5 m rồi đào hố trồng trúc trên mặt băng, băng nọ cách băng kia 2 m (băng chừa)

Trường hợp đất có độ dốc lớn (trên 300) thì làm đất theo hố trồng, nghĩa là tại mỗi điểm trồng Mao trúc, san một mặt bằng khoảng 4 m2 (2x2 m) rồi đào hố trồng ở giữa.

Mật độ trồng: ở nơi đất tương đối bằng độ dốc dưới 200 thì trồng với dãn cách 4x4 m, tương đương 625 cây/ ha, nơi đất dốc trên 200 trồng với dãn cách 4x5 m - tương đương 500 cây/ha. Cũng có tài liệu nói rằng nếu sẵn giống và không có nhu cầu trồng xen cây lương thực ngắn ngày vào giữa những khóm trúc trong vài ba năm đầu tiên khi trúc chưa phát triển, có thể trồng với dãn cách 3x3 m thậm chí 3x2 m (tương đương 1.111 hay 1.666 cây/ha). Trong trường hợp này đất phải nhiều mùn và cần chăm sóc thâm canh tốt.

Hố trồng: Mao trúc là loài sinh trưởng bằng thân ngầm nên hố đào trồng Mao trúc thường có hình chữ nhật có cạnh dài song song với đường đồng mức và có kích thước như sau: dài 70-80 cm, rộng 40-50 cm, sâu 40-50 cm. Hố được đào trước vào vụ thu đông, lớp đất mặt để riêng để trộn với 5-10 kg phân chuồng hoai mục lấp xuống trước, dày 20 cm, lèn chặt.

Cây giống: Cây giống Mao trúc 1 năm tuổi có chiều cao 20-30 cm, đường kính thân ngầm 0,2 cm; tốt nhất cây 2 - 3 tuổi mọc thành cụm, mỗi cụm 3-8 cây cao từ 50-150 cm, đường kính thân ngầm 0,4-1,0 cm đều có thể đem trồng. Nếu đủ kinh nghiệm có thể tách cụm nhỏ với 3 - 4 thân khí sinh. Tất cả đều trồng bằng cây con rễ trần, không tạo cây bầu.

Khi đánh cây con từ vườn ươm đi trồng cần chú ý: - Đánh cả cụm và cố gắng tránh làm tổn thương cơ giới đối với thân ngầm, bởi vì nếu tách cụm thì tăng được số lượng cây giống nhưng tỷ lệ cây sống không cao. Kinh nghiệm để đánh cây tránh làm ảnh hưởng đến thân ngầm là trước khi đánh tưới nước thật đẫm (hoặc tháo nước ngập luống) rồi dùng tay lay nhấc cả cụm lên.

Cây giống cần được cắt ngọn và tỉa lá giảm bớt 1/3 diện tích lá rồi hồ rễ cẩn thận, đóng gói giữ ẩm, tưới nước thường xuyên khi vận chuyển không để cây bị héo do bội chi nước hoặc do nhiệt độ cao.

Kỹ thuật trồng

Mùa trồng tốt nhất là tháng 12 đến tháng 2 vào tiết mưa phùn khi cây ngừng sinh trưởng, những vùng mùa xuân không có mưa phùn như Tây bắc cần phải trồng sớm hơn

Phải tận dụng thời tiết mát mẻ, có mưa để trồng nhằm đạt tỷ lệ sống cao.

Đặt cây xuống hố đã đào (và lấp 1/2 trước) sao cho thân ngầm dàn trải thoải mái theo chiều dọc hố đào. Sau đó lấp đất đã đập nhỏ và lèn chặt đất, sao cho gốc cây giống và thân ngầm ở sâu dưới lớp đất lấp từ 25-30cm, chú ý lèn chặt đất nhẹ nhàng để không làm tổn thương mầm măng trên thân ngầm.

Cuối cùng tạo gờ để giữ ẩm, phủ một lớp cỏ khô, rơm rạ vào gốc cây và tưới ẩm nếu đất khô.

Chăm sóc sau trồng

ở những nơi gió nhiều cần phải đóng 3 cọc xung quanh rồi buộc dây cố định giữ không cho lay gốc.

Có biện pháp phòng chống gia súc, gia cầm phá hoại

Phủ rơm rạ, tưới ẩm nếu gặp thời tiết nắng nóng, hoặc tháo nước đọng ở hố nếu bị úng ngập do mưa nhiều

Trồng dặm kịp thời

Làm cỏ và xới gốc 2 lần vào tháng 2, tháng 3 và tháng 5, tháng 6

Năm đầu bón 2 lần: một lần vào tháng 5,6 và một lần vào tháng 9,10 , mỗi lần bón 50-150 g NPK

Tỉa cây: Theo kinh nghiệm, măng thân khí sinh trong năm đầu mới trồng không nên giữ lại hoặc chỉ giữ lượng nhỏ. Từ năm thứ 2 chọn những mầm măng ở xa gốc mẹ và to khoẻ giữ lại 1-2 chồi để tạo cây mẹ mới, còn lại các cây khác nên tỉa bỏ. Qui tắc cần tuân theo là: Giữ xa đào gần (đào măng); giữ khoẻ đào yếu, giữ thưa đào dày - Duy trì được qui tắc này thì rừng trúc mau to, năng suất cao.

Chú ý khác: Nếu phát hiện thân ngầm mọc chồi lên mặt đất thì lập tức phải vùi xuống hoặc bồi thêm đất lấp kín, nếu không sẽ chậm sinh trưởng. Nếu có sâu cuốn lá, sâu ăn măng phải kịp thời phun thuốc phòng trừ.

Quản lý rừng Mao trúc

Quản lý rừng Mao trúc bao gồm làm cỏ, xới đất, bón phân, tỉa cây và phòng trừ sâu bệnh

Rừng Mao trúc mới trồng do chưa khép tán phải làm cỏ và cuốc lật đất một lần ở độ sâu 25-30 cm để tạo điều kiện cho thân ngầm phát triển, tiến hành vào tháng 5, tháng 6. Những nơi có điều kiện cần trồng xen cây họ đậu để vừa tận dụng đất, vừa đỡ công làm cỏ và làm đất tốt thêm.

Bón phân: Theo phân tích, để tạo ra 50 kg măng Mao trúc cần lấy từ đất 250-300 gam nitơ, 50-75 gam lân, 100-125 gam kali. Nếu mỗi hecta mỗi năm thu 15.000 kg măng thì phải bón 75-105 kg nitơ, 15-22,5 kg lân, 30-37,5 kg kali (tỷ lệ N:P:K là 5:1:2).

Theo kinh nghiệm thì một năm cần bón làm 4 lần kết hợp cả phân vô cơ và phân chuồng hoai để đáp ứng được yêu cầu sinh trưởng của Mao trúc

  • Lần 1: Bón lượng phân bằng 35% NPK cho cả năm, bón ngay sau khi thu hoạch măng (tháng 4 đến tháng 6) bón kết hợp cuốc lật đất
  • Lần 2: Bón vào khoảng tháng 7 đến tháng 9, bón lượng NPK bằng 15% của cả năm - lúc này nên pha vào nước để bón hoặc bón vào lúc mưa.
  • Lần 3: Bón 40% lượng phân cả năm vào tháng 11 và tháng 12, bón kèm với 1.000-3.000 kg phân chuồng cho mỗi hecta tuỳ theo loại đất, tốt bón ít, đất xấu bón nhiều.
  • Lần 4: Bón nốt 10% lượng phân còn lại cùng với 380 kg Đạm cho mỗi hecta và bón vào khoảng tháng 2, tháng 3.

Chặt tỉa và lấy măng

Tuỳ theo mục đích trồng (lấy măng hay lấy thân là chính) mà chặt tỉa cây để lại mật độ cho phù hợp. Mặt khác phải chú ý nguyên tắc đã nói ở phần trên về qui tắc chặt tỉa. Cây 3-4 năm tuổi có chất lượng tốt nhất và có vai trò nuôi dưỡng thế hệ sau quan trọng nhất cần giữ lại nuôi dưỡng. Cây 6-7 tuổi là cây già nên chặt đi để giữ mật độ hợp lý. Những cây bị sâu bệnh, bị cụt ngọn không có giá trị thương phẩm cũng nên loại đi. Việc chặt tỉa hàng năm được làm vào mùa đông là tốt nhất.

Lấy măng hợp lý là biện pháp quan trọng nâng cao sản lượng và kích thước cây. Cần lấy hết măng điếc, một phần măng nhỏ đầu vụ và cuối vụ, chọn nuôi măng mập nhất giữa vụ để đảm bảo kích thước cây các thế hệ sau.

Kết luận
Ở một số tỉnh vùng núi phía Bắc (bao gồm cả Việt bắc và Tây bắc nước ta) có nhiều loài trúc tản sinh phân bố, là tiền đề về mặt sinh thái để gây trồng Mao trúc. Trúc sào ở Cao Bằng đã có thời làm cần câu, gậy trượt tuyết xuất khẩu và nay là các sản phẩm cao cấp như chiếu, mành, rèm... là những mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao, tuy phẩm chất và giá trị không thể bằng Mao trúc.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà diện tích trồng trúc ở nước ta nói chung và các sản phẩm công nghiệp, thực phẩm của trúc nói riêng, chưa phát triển được như mong muốn trong khi tiềm năng (đất đai vùng cao có thể trồng được Trúc) còn rất lớn. Việc gây trồng trúc ở Cao Bằng gặp khó khăn do thiếu giống là chủ yếu. Ngoài những tỉnh đã có nhiều loài trúc bản địa như Cao Bằng, Bắc Cạn, Lào Cai, Lạng Sơn ... thì Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái và đặc biệt là vùng Tây bắc Việt Nam chắc chắn có nhiều địa điểm có thể gây trồng Mao trúc.

Ngoài ra nhiều vùng cao 1000 - 2000m trên dãy Trường sơn cũng có thể phù hợp với phát triển Mao trúc nhưng cần lưu ý lựa chọn những nơi có mùa xuân ẩm ướt.

Vấn đề giống và kỹ thuật coi như bước đầu đã được giải quyết - tuy ta chưa chủ động sản xuất được hạt giống nhưng việc có thể mua hạt giống Mao trúc với số lượng đủ dùng và lâu dài với giá cả chấp nhận được, khiến chúng tôi nghĩ rằng việc gây trồng Mao trúc với quy mô nhất định là hướng phát triển có triển vọng.

Bóc ván cật mao trúc và sản xuất ván nhân tạo với bề mặt trang trí là ván cật

Bóc lớp ván cật Mao trúc làm bề mặt trang trí và sản xuất ván nhân tạo với bề mặt trang trí bằng ván cật Mao trúc được thực hiện theo chu trình công nghệ như sau:

Chọn nguyên liệu và cắt khúc: Cần chọn những đoạn gốc Mao trúc 4 - 6 năm tuổi, to mập, thẳng, tròn đều, thành ống tre dày 10 mm trở lên, không khuyết tật rồi cắt thành khúc dài 300 - 400 mm.

Làm mềm: Đun trong dung dịch Natri carbonat (Na2CO3) 10% với nhiệt độ 80 - 120 0C trong khoảng 4 - 8 giờ tuỳ theo nhiệt độ và độ già của khúc nguyên liệu. Na2CO3 vừa đẩy nhanh quá trình làm mềm vừa loại bỏ sạch đường và protein trong nguyên liệu để giảm hẳn nguy cơ mọt. Để có màu sắc sáng đẹp đôi khi còn phải ngâm thêm 1 - 2 giờ trong dung dịch lơ hồng 1% rồi tẩy rửa bằng cách ngâm 30 phút trong acid acetic 5% và tráng rửa vài lần bằng nước lã. Có thể dùng cách tẩy trắng khác: ví dụ như xông SO2 1 ngày đêm trong phòng kín rồi rửa bằng nước

Bóc ván cật: Vấn đề then chốt là tạo được bộ gá phù hợp với đặc điểm rống ruột, đường kính không đồng nhất đảm bảo đường tâm trục quay ăn khớp chính xác với đường tâm nguyên liệu (xem hình vẽ). Kiểu 2 mâm hình chóp nén giãn bộ cặp nguyên liệu từ phía trong.

Độ dày ván cật có thể bóc là 0,2 - 0,5 mm. Do ván bóc rất mỏng, độ cứng cao hơn gỗ rất nhiều nên khi bóc không cần đặt thanh nén. Trong khi bóc, nhiệt độ nguyên liệu cần duy trì 50 - 700C, tốc độ vòng quay khoảng 50 - 70 vòng/phút

Làm khô: Ván mới bóc hàm lượng nước rất cao, phải làm khô tới hàm lượng 8 - 10% (tuỳ độ ẩm cân bằng với không khí ở các địa phương) mới có thể chuyển sang dán mặt. Phương pháp hong khô có thể là hong gió tự nhiên hoặc hong gió nóng 600C. Cần tránh các phương pháp làm khô quá nhanh vì loại ván bóc này rất mỏng

Tạo ván trang trí: Phương pháp trang trí bề mặt rộng thường dùng với ván nền có độ thẩm mỹ kém như ván dăm bào, tạo nên ván nhân tạo với bề mặt toàn trúc sáng màu, vân thớ đẹp.

Kiểu thứ hai là tạo mặt trang trí với các bố cục diện tích nhỏ thành các vạch song song hoặc các đồ án, hoa văn thiết kế trước nhằm khai thác tối đa ưu thế thẩm mỹ của vân thớ hình sợi, hình kim của bề mặt ván trúc.

Đôi khi để nâng cao hiệu quả thẩm mỹ, người ta còn nhuộm lớp ván bóc thành nhiều sắc độ khác nhau rồi ghép hình nghệ thuật với các vân thớ và sắc độ khác nhau.

Những sản phẩm loại này không những bắt mắt, rất trang nhã mà còn đem lại sắc thái thiên nhiên rất hấp dẫn, đồng thời lại có độ cứng và khả năng chịu mài mòn rất cao và hiện nay được coi là vật liệu trang trí nội thất như tường, cột, ván sàn cao cấp nhất.
Ngoài ra, ván mặt Mao trúc với các khuôn nén định hình còn có thể tạo nên nhiều sản phẩm mỹ nghệ cao cấp như mâm trúc, đĩa trúc, bát trúc, tráp, hộp trúc,...

anhtai (tổng hợp và theo agriviet.com)

Đánh giá:      Google Bookmarks Facebook Twitter   Gửi email     Bản để in     Phản hồi

SÁCH THAM KHẢO

CÁC BÀI MỚI HƠN:
CÁC BÀI ĐĂNG TRƯỚC:
TIN BÀI MỚI NHẤT


ĐƯỢC XEM NHIỀU NHẤT

SÁCH THAM KHẢO

LIÊN KẾT WEBSITE

 
 
 
 
 
 
 

TỪ KHÓA

BVN - BotanyVN - Botany Research and Development Group of Vietnam
(©) Copyright 2007-2025