Phương pháp đánh giá
Khi đánh giá mức độ giống nhau giữa các hệ thực vật, dựa vào công thức tính chỉ số giống nhau của Sorensen (theo A. E. Margurran, 1991), theo công thức này, c là số taxon giống nhau của hai hệ thực vật còn a và b là tổng số taxon của mỗi hệ thực vật đó: S = 2c/(ab
Theo lý thuyết, chỉ số S = 1 tương ứng với hai hệ thực vật có thành phần taxon giống hệ nhau và S = 0 khi hai quần xã đó không có một taxon nào giống nhau, chỉ số tương đồng này tăng từ 0 đến 1 đồng nghĩa với tính tương đồng của hai hệ thực vật tăng lên. theo Safer, chỉ số tương đồng đó từ 0,8 trở lên thì 2 hệ thực vật thuộc về cùng một xứ hệ thực vật.
Dựa vào các danh lục chúng tôi đã công bố từ năm 1992 đến nay có bổ sung và cật nhập, chúng tôi đã xem xét các mối quan hệ như sau:
Quan hệ của Bạch Mã và Pù Mát
Mối tương quan hệ của Bạch Mã về mức độ loài so với VQG là Pù Mát: có đến 45% số loài của VQG Bạch Mã là những loài cũng phân bố ở VQG Pù Mát do đó chỉ số thân thuộc ở cấp độ loài giữa hai hệ thực vật này là 0,38, ở cấp độ chi là 0,64 và cấp độ họ là 0,76 (bảng 1).
Bảng 1. Chỉ số tương đồng loài của hệ thực vật Bạch Mã với Pù Mát
Bậc quan hệ | Bạch Mã | Pù Mát | Trùng nhau | Chỉ số S |
Loài | 1758 | 2494 | 798 | 0,38 |
Chi | 757 | 931 | 543 | 0,64 |
Họ | 186 | 204 | 150 | 0,77 |
Do đó ở mức độ họ và chi thì có thể nói rằng hai hệ thực vật này là rất khá thân thuộc với nhau.
Quan hệ của Bạch Mã và Phong Nha - Kẻ Bàng
Cũng giống như mối quan hệ của Bạch Mã đối với Pù Mát, Phong Nha - Kẻ Bàng và Bạch Mã cũng có mối quan hệ ở cấp độ loài là trung bình (0,35) trong khi đó ở cấp độ chi và họ thì đều thể hiện mối quan hệ khá cao (0,78 và 0,64. Bảng 2). Điều đó cho thấy mặc dù Phong Nha - Kẻ Bàng nằm gần Bạch Mã hơn so với Pù Mát về mặt địa lý nhưng rõ ràng chúng có mối quan hệ tương tự nhau, điều đó phần nào được giải thích vì chúng có điều kiện tự nhiên khá giống nhau và lịch sử hình thành là chung nhau, đều là sự hình thành của hệ thực vật Bắc Trường Sơn.
Bảng 2. Chỉ số tương đồng loài của hệ thực vật Bạch Mã với Phong Nha - Kẻ Bàng
Bậc quan hệ | Bạch Mã | PN - KB | Trùng nhau | Chỉ số S |
Loài | 1758 | 2383 | 732 | 0,35 |
Chi | 757 | 807 | 508 | 0,65 |
Họ | 186 | 174 | 143 | 0,79 |
Quan hệ của Bạch Mã và Bà Nà
Bà Nà là khu hệ thực vật có thể nói là rất gần gũi với Bạch Mã về mặt địa lý, tuy nhiên do sự chia cắt của đèo Hải Vân và đây cũng là yếu tố làm thay đổi tính chất của khí hậu giữ hai miền Nam - Bắc của giải Trường Sơn. Nằm trên ranh giới của hai nơi khác nhau đó, Bà Nà và Bạch Mã có thể được coi như là sự giao thoa của hai yếu tố: hệ thực vật phía Bắc (Bạch Mã) và hệ thực vật phía Nam (Bà Nà) của giải Trường Sơn.
Tuy nhiên, không giống như những gì chúng ta mong đợi, hệ thực vật Bà Nà và hệ thực vật Bạch Mã chỉ chỉ số thân thuộc ở cấp độ loài là 0,26. Như vậy hai hệ thực vật này rõ ràng khác xa nhau về thành phần loài mặc dù ở mức độ chi và đặc biệt là mức độ họ chúng có chỉ số thân thuộc rất cao, có thể nói rằng hầu hết các họ thực vật có ở Bà Nà thì cũng có ở Bạch Mã (151 / 156, bảng 3). Điều đó cho thấy sự chia cắt về địa hình đã làm thay đổi khí hậu góp phần rất quan trọng trong việc hình thành hệ thực vật.
Bảng 3. Quan hệ của hai hệ thực vật Bạch Mã và Bà Nà
Bậc quan hệ | Bạch Mã | Bà Nà | Trùng nhau | Chỉ số S |
Loài | 1758 | 1030 | 363 | 0,26 |
Chi | 757 | 542 | 346 | 0,53 |
Họ | 186 | 156 | 151 | 0,88 |
Quan hệ của Bạch Mã và Sông Thanh
Hệ thực vật của KBT Sông Thanh mặc dù cũng có vị trí địa lý khá gần với Bạch Mã nhưng cũng giống như với Bà Nà, nó bị chia cắt với Bạch Mã bởi chính đèo Hải Vân và do đó nó là đại diện của hệ thực vật ở phía Nam của dãy Trường Sơn. So sánh về thành phần loài của hệ thực vật ở KBT Sông Thanh với hệ thực vật VQG Bạch Mã thấy rằng hai hệ thực vật này có số loài giống nhau rất ít, còn ít hơn cả số loài giống nhau giữa Bạch Mã và Bà Nà với chỉ số thân thuộc là rất thấp, 0,22. Tuy rằng ở mức độ chi và họ thì chỉ số thân thuộc của Sông Thanh với Bạch Mã cũng thấp như của Bà Nà và Bạch Mã, 0,56 và 0,77. Nếu xét ở cấp độ họ và chi thì chúng cùng nằm trong một xứ hệ thực vật. Nhưng ở cấp độ loài thì mức độ thân thuộc của hệ thực vật Sông Thanh và Bạch Mã thấp hơn so với Phong Nha - Kẻ Bàng, Pù Mát với Bạch Mã. Rõ ràng việc xếp Bạch Mã vào vùng Bắc Trường Sơn là hợp lý.
Bảng 4. Quan hệ của hai hệ thực vật Bạch Mã và Sông Thanh
Bậc quan hệ | Bạch Mã | Sông Thanh | Trùng nhau | Chỉ số S |
Loài | 1758 | 885 | 296 | 0,22 |
Chi | 757 | 520 | 360 | 0,56 |
Họ | 186 | 144 | 130 | 0,79 |
Quan hệ của Bạch Mã và Hữu Liên
So với Hữu Liên, Bạch Mã rất xa về mặt địa lý cũng như khí hậu và thủy văn. Điều đó có thể giải thích, một là đại diện hệ thực vật phát triển trên đất đá vôi chiếm phần lớn và một là đại diện cho hệ thực vật trên núi đất của dải Trường Sơn. Chỉ số thân thuộc ở cấp độ loài rất thấp (0,1) tuy nhiên ở cấp độ họ và chi thì chỉ số thân thuộc của hai hệ thực vật là khá cao đủ để chứng minh chúng cùng thuộc về một xứ.
Bảng 5. Quan hệ của hai hệ thực vật Bạch Mã và Hữu Liên
Bậc quan hệ | Bạch Mã | Hữu Liên | Trùng nhau | Chỉ số S |
Loài | 1758 | 1850 | 173 | 0,10 |
Chi | 757 | 755 | 382 | 0,51 |
Họ | 186 | 165 | 126 | 0,72 |
Quan hệ của Bạch Mã và Hoàng Liên
Sự khác nhau của Bạch Mã với Hoàng Liên thể hiện là hai khu vực có sự khác xa nhau về mặt địa lý. Qua chỉ số thân thuộc (0,14) phần nào cho thấy mức độ tương đồng ít nhiều về điều kiện tự nhiên và sinh cảnh của hai hệ thực vật.
Bảng 6. Quan hệ của hai hệ thực vật Bạch Mã và Hoàng Liên
Bậc quan hệ | Bạch Mã | Hoàng Liên | Trùng nhau | Chỉ số S |
Loài | 1758 | 2024 | 270 | 0,14 |
Chi | 757 | 774 | 351 | 0,46 |
Họ | 186 | 202 | 88 | 0,45 |
Tuy nhiên ở cấp độ chi và họ thì sự khác biệt của hai hệ thực vật lại thể hiện rất rõ, 0,45 và 0,46. Với một hệ thực vật đặc biệt như Hoàng Liên thì việc có các họ đặc trưng cho vùng á nhiệt đới núi cao và ôn đới sẽ làm cho nó khác biệt với các hệ thực vật khác. Chỉ có những loài, chi và họ của vùng nhiệt đới mới có thể là những cầu nối cho hệ thực vật Bạch Mã và Hoàng Liên được mà thôi. Điều này cũng chứng minh quan điểm của Takhtajan tách Hoàng Liên khỏi xứ Cổ nhiệt đới và sát nhập vào xứ Toàn bắc là hợp lý (Takhtajan, 1987).
Quan hệ của Bạch Mã và Cát Tiên
Hệ thực vật VQG Cát Tiên là đại diện cho hệ thực vật khu vực miền Nam được làm đối tượng để so sánh với hệ thực vật của Bạch Mã. Với tổng số 358 loài giống nhau của hai khu vực, hệ số thân cận giữa chúng ở cấp độ loài là 0,23 trong khi đó hệ số chi đạt 0,51 và ở cấp độ họ thì chỉ số thân cận là 0,67. Rõ ràng cũng như hệ thực vật như Cát Tiên là một hệ thực vật nhiệt đới điển hình trong xứ Cổ nhiệt đới với mức độ thân cận ở cấp độ chi là 0,51 và it có quan hệ thân cận với hệ thực vật này ở mức độ loài nhưng Bạch Mã cũng thuộc về xứ Cổ nhiệt đới.
Bảng 7. Quan hệ của hai hệ thực vật Bạch Mã và Cát Tiên
Bậc quan hệ | Bạch Mã | Cát Tiên | Trùng nhau | Chỉ số S |
Loài | 1758 | 1403 | 358 | 0,23 |
Chi | 757 | 716 | 381 | 0,52 |
Họ | 186 | 174 | 123 | 0,68 |
Kết luận
Hệ thực vật Bạch Mã, bằng việc so sánh thành phần các taxon để xác định mức độ thân thuộc cao với các hệ thực vật khác như Pù Mát và Phong Nha - Kẻ Bàng, ít có quan hệ thân thuộc đối với các khu hệ thực vật ở phía Nam giải Trường Sơn. Có thể do sự chia cắt về địa hình bởi đèo Hải Vân đã tạo nên sự khác nhau về chế độ khí hậu nên các hệ thực vật ở hai bên đèo ít có mối quan hệ thân thuộc giống như ở phía Bắc của đèo. Hệ thực vật Hoàng Liên tuy có nhiều loài giống nhau với Bạch Mã hơn là hệ thực vật Hữu Liên, chỉ số thân cận ở cấp độ loài cao hơn nhưng vì có Hoàng Liên là một khu hệ đặc biệt và có tính chất của vùng á nhiệt đới núi cao, ôn đới nên ở các taxon cao hơn, chỉ số thân thuộc với Bạch Mã là khá thấp, đủ để tách nó khỏi xứ Cổ nhiệt đới và sát nhập vào xứ Toàn bắc như viện sĩ Takhtajan đã đề nghị. So sánh với hệ thực vật Cát Tiên, nơi được đánh giá cùng một xứ cổ nhiệt đới nhưng khác xa nhau ở cấp độ loài. Điều đó cho thấy hệ thực vật Bạch Mã có thiên hướng nghiêng về phía Bắc của khu vực miền Trung hơn. Vì vậy xếp nó vào yếu tố địa lý thực vật Bắc Trường Sơn là hợp lý.
Bảng 8. Tổng kết các chỉ số quan hệ của hệ thực vật Bạch Mã với các VQG và KBT khác
Bậc quan hệ | Phong Nha - Kẻ Bàng | Pù Mát | Sông Thanh | Bà Nà | Hoàng Liên | Hữu Liên | Cát Tiên |
Loài | 0,35 | 0,38 | 0,22 | 0,26 | 0,14 | 0,10 | 0,23 |
Chi | 0,64 | 0,64 | 0,56 | 0,53 | 0,46 | 0,50 | 0,52 |
Họ | 0,79 | 0,77 | 0,79 | 0,88 | 0,45 | 0,72 | 0,68 |
Tài liệu tham khảo
- Anne E. Magurran, 1991, Ecological Diversity and Its Measurement. Chapman and Hall, London, New York, Tokyo, Melbourne, Madras. Trang 92 - 96.
- Nguyễn Nghĩa Thìn - Mai Văn Phô (chủ biên) và tập thể, 2003. Đa dạng hệ Nấm và thực vật VQG Hoàng Liên. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
- Nguyễn Nghĩa Thìn - Ngô Tiến Dũng và tập thể, 2005. Đa dạng thực vật VQG Yok Đôn, một hệ sinh thái đặc biệt ở Tây Nguyên. (sách đang hoàn thiện bản thảo).
- Nguyễn Nghĩa Thìn - Nguyễn Thanh Nhàn, 2004. Đa dạng thực vật VQG Pù Mát. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
- Nguyễn Nghĩa Thìn - Nguyễn Thị Thời, 1998. Đa dạng thực vật có mạch vùng núi cao Sa Pa - Phan Si Pan. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.
- Nguyễn Nghĩa Thìn và tập thể, 2001. Đa dạng sinh học ở KBTTN Hữu Liên, Hữu Lũng, Lạng Sơn”. Báo cáo tổng kết đề tài độc lập.
- Nguyễn Nghĩa Thìn và tập thể, 2003. Đề tài nghiên cứu cơ bản, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, “Nghiên cứu đa dạng sinh vật ở KBTTN Bà Nà, thành phố Đà Nẵng”, đề tài nhánh: “Nghiên cứu tính đa dạng thực vật KBTTN Bà Nà”. Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
- Nguyễn Nghĩa Thìn và tập thể, 2003. Báo cáo tổng kết công trình nghiên cứu khoa học cơ bản Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, đề tài “Điều tra, đánh giá tính đa dạng sinh vật tại Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha”. Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
- Nguyễn Nghĩa Thìn và tập thể, 2003. Báo cáo tổng kết công trình nghiên cứu khoa học độc lập cấp Nhà nước, đề tài “Điều tra, đánh giá tính đa dạng sinh vật tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Lạng Sơn, huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn”. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.