Nói riêng các quần xã rừng này trên núi đá vôi chứa đựng nhiều giá trị bảo tồn cao và độc đáo. Chẳng hạn chỉ trong vài năm gần đây ở cao nguyên đá vôi Quản Bạ, giáp với Đồng Văn đã phát hiện được chủ yếu trong các quần xã rừng Thông sót lại trên đường đỉnh không ít taxon có giá trị bảo tồn cao như 10 loài và thậm chí cả 2 chi mới cho khoa học (Bách vàng Xanthocyparis và Thìa là gỗ Xyloselinum) cùng hàng chục loài khác bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam. Trong khi đó những nghiên cứu về thực vật nói chung, về bảo tồn thực vật nói riêng ở cao nguyên đá vôi Đồng Văn hầu như chưa có. Nhằm đáp ứng yêu cầu của tỉnh Hà Giang về xây dựng cao nguyên này thành khu bảo tồn chúng tôi đã tham gia xác định các loài thực vật bị đe doạ tuyệt chủng và đánh giá hiện trạng bảo tồn chúng ở đây.
Địa điểm và đối tượng nghiên cứu
Đồng Văn là cao nguyên đá vôi nằm ở cực Bắc nước ta, cao nhất và khá rộng lớn. Nó được bắt đầu về phía tây từ khi kết thúc thung lũng ở phía đông huyện Yên Minh, về phía đông đến bờ phải của sông Nho Quế, về phía nam đến bờ trái của sông Gâm và về phía bắc đến biên giới Việt Trung. Độ cao từ khoảng 1000m đến các đỉnh cao nhất thường không quá 1600m trên mặt biển. Thành phần đá gốc chủ yếu là đá vôi xen kẽ với một số ít đá phiến sét ở thung lũng và chân núi. Thảm thực vật nguyên sinh vốn bao phủ toàn bộ diện tích cao nguyên là rừng rậm thường xanh mưa mùa nhiệt đới ở đai núi thấp chủ yếu trên sản phẩm phong hoá của đá vôi với thành phần loài phong phú và đa dạng. Hệ thực vật của cao nguyên này thuộc tiểu vùng địa lý thực vật Tây Tạng-Vân Nam, miền Đông Á, xứ Toàn Bắc. Trải qua hàng trăm năm chịu sự tác động của các cư dân tại chỗ lẫn di cư chủ yếu theo hướng không bền vững là phát nương làm rẫy, chặt gỗ, củi, thu hái các sản phẩm ngoài gỗ và lại thường xuyên bị lửa rừng tàn phá nên ngày nay kiểu rừng kể trên chỉ còn sót lại một số mảnh nhỏ và rải rác đây đó trên một số đường đỉnh với tổng diện tích có lẽ không quá vài chục ha. Chúng vẫn liên tục bị tác động theo các hướng kể trên dẫn đến kiệt quệ trầm trọng. Đây là các di tích cuối cùng của kiểu quần xã rừng Thông trước đây vốn bao phủ rộng khắp tất cả các đường đỉnh núi đá vôi từ 600-700 đến 1500-1600m, có cấu trúc độc đáo với thành phần loài thường khác biệt với trên núi đá silicát, trong đó có không ít loài đặc hữu hẹp, cổ, kể cả những loài chưa từng được biết đến.
Hình 1: Sơ đồ các điểm điều tra
Chính ở các mảnh rừng sót lại trên đường đỉnh của Cao nguyên đá vôi Đồng Văn hy vọng còn có thể phát hiện được những thực vật bị đe doạ tuyệt chủng. Trong 3 năm (2005-2007) chúng tôi đã thực hiện một số đợt khảo sát ở 7 điểm (xem sơ đồ và vị trí các điểm. Điểm 1. Huyện Đồng Văn, xã Thái Phìn Tủng, quanh tọa độ 23015’22” B, 105017’14” Đ, khoảng 1500m - Điểm 2. Huyện Đồng Văn, xã Sính Lủng, gần bản Hà Dề, quanh tọa độ 23º12’23” B, 105º17’18” Đ, độ cao khoảng 1450m và đường đỉnh núi Chống Sía, 23º12’44” B, 105º17’38” Đ, độ cao khoảng 1290- 1420 m. - Điểm 3. Huyện Đồng Văn, xã Hố Quáng Phìn, bản Chính Chừ Vá, đường đỉnh núi đá vôi Lủng Thà, quanh toạ độ 23o10’08” B, 105o15’53” Đ, độ cao khoảng 1000-1400m.
- Điểm 4. Huyện Mèo Vạc, xã Pải Lủng, quanh tọa độ 23º15’06” B, 105º22’02” Đ, ở độ cao khoảng 1300 m, quanh tọa độ 23º14’44” B, 105º23’48” Đ, ở độ cao khoảng 1240m.- Điểm 5. Huyện Đồng Văn, xã Tả Lủng, bản Xà Lủng, quanh tọa độ 23º14’50” B, 105º21’34” Đ, ở độ cao 1450-1550m- Điểm 6. Huyện Mèo Vạc, xã Sủng Trà, gần bản Pả Vi Thượng, quanh tọa độ 23º11’05” B, 105º24’04” Đ, ở độ cao khoảng 1290-1450m; xã Sủng Trà, gần bản Ta Cha Lang, quanh tọa độ 23º10’12” B, 105º17’39” Đ, ở độ cao khoảng 1100-1150m - Điểm 7. Huyện Mèo Vạc, gần thị trấn Mèo Vạc, quanh tọa độ 23009’45” B, 105024’37” Đ, ở độ cao 1075m). Đối tượng tập trung vào một số nhóm thực vật nhậy cảm như Thông và Lan. Tổng cộng đã thu được khoảng 250 số hiệu mẫu thực vật. Sau khi nghiên cứu mẫu được lưu trữ tại Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Hà Nội (HN), Vườn Thực vật Mítxuri, Hoa Kỳ (MO) và Viện Thực vật học Kômarốp (LE).
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Những thực vật bị đe doạ tuyệt chủng điển hình ở cao nguyên đá vôi Đồng Văn dựa trên kết quả xác định tên các mẫu thu được ở các điểm khảo sát và tổng hợp dẫn liệu trong các tài liệu đã công bố cùng kết quả đánh giá hiện trạng bảo tồn được trình bày trong bảng 1, các kết quả nghiên cứu này cho thấy ở các mảnh rừng sót lại rải rác trên đường đỉnh của cao nguyên đá vôi Đồng Văn:
1. Đã phát hiện được đến 8 trong tổng số 10 loài Thông (chỉ thiếu Pơmu và Thông tre lá ngắn) của toàn vùng núi đá vôi đông bắc tỉnh Hà Giang, tỉnh giàu loài Thông nhất Việt Nam. Đó là Bách xanh đá vôi Calocedrus rupestris và Bách vàng việt-Xanthocyparis vietnamensis thuộc họ Hoàng đàn Cupressaceae, Thông pà cò-Pinus kwangtungensis, Thiết sam giả-Pseudotsuga sinensis và Thiết sam bắc Tsuga chinensis thuộc họ Thông Pinaceae, Thông tre lá dài-Podocarpus neriifolius thuộc họ Thông tre Podocarpaceae và Thông đỏ đá vôi-Taxus chinensis thuộc họ Thông đỏ Taxaceae và đặc biệt nhất là Thông hai lá đá vôi-Pinus hwuangshanensis W.Y. Hsia, loài chưa biết đến ở cao nguyên Đồng Văn lẫn các vùng lân cận nói riêng, Việt Nam nói chung. Điều cần chú ý là các loài Bách xanh đá vôi, Bách vàng việt, Thông pà cò, Thiết sam giả, Thiết sam bắc và Thông hai lá đá vôi còn sót lại thường ở nhiều điểm nghiên cứu. Những cây thu mẫu vật thường là các cây gỗ sót lại, thấp, cong queo, tật bệnh, nhiều khi bị lửa rừng xém đến. Thực ra các loài kể trên vốn là những cây gỗ có thể cao đến 15-20m với đường kính ngang ngực đến 0,5-0,7 m hay hơn nữa. Điều đó chứng tỏ trước đây các quần xã ưu thế một trong 6 loài Thông kể trên từng mọc rất phổ biến, nếu như không phải ở tất cả các đường đỉnh núi đá vôi ở cao nguyên Đồng Văn, giống như hiện trạng còn thấy ở một số vùng núi đá vôi lân cận của cùng tỉnh như Quản Bạ cũng như của các tỉnh lân cận như Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang.
Bảng 1. Những thực vật bị đe doạ tuyệt chủng điển hình ở cao nguyên đá vôi Đồng Văn (tỉnh Hà Giang)
Tên loài, khoa học | Tên họ | Mẫu vật nghiên cứu |
Coriaria nepalensis Wall. | Coriariaceae | CBL 1811 |
Calocedrus rupestris Aver. et al. | Cupressaceae | HAL 8548, HAL 8668 |
Aletris stenoloba Franch. | Nartheciaceae | CBL 1767 |
Bulbophyllum ambrosia Schltr. | Orchidaceae | HAL 8508 |
Bulbophyllum andersonii J.J. Sm. | Orchidaceae | HAL 8468, HAL 8593 |
Bulbophyllum emarginatum J.J. Sm. | Orchidaceae | HAL 8575 |
Bulbophyllum longibrachiatum Tsi | Orchidaceae | HAL 8494 |
Bulbophyllum reptans Lindl. | Orchidaceae | HAL 8557 |
Calanthe argenteo-striata Tang & Cheng | Orchidaceae | HAL 8613 |
Cheirostylis latipetala Aver. & Averyanova | Orchidaceae | HAL 8478, HAL 8526, HAL 8598 |
Coelogyne malipoensis Tsi | Orchidaceae | HAL 8527, HAL 8563 |
Dendrobium loddigesii Rolfe | Orchidaceae | HAL 8525 |
Epigeneium labuanum Summerh. | Orchidaceae | NTH 6087 |
Epipactis alatus Aver. & Efimov | Orchidaceae | HAL 8513 |
Eria calcarea V.N. Long & Aver. | Orchidaceae | HAL 8476 |
Eria siamensis Schltr. | Orchidaceae | HAL 8510 |
Eria spicata Hand.-Mazz. | Orchidaceae | HAL 8511 |
Eria sutepensis Downie | Orchidaceae | HAL 8583 |
Eriodes barbata Rolfe | Orchidaceae | HAL 8473 |
Gastrochilus pseudodistichus Schltr. | Orchidaceae | HAL 8558 |
Liparis distans C.B. Clarke | Orchidaceae | HAL 8606 |
Liparis stricklandiana Rchb.f. | Orchidaceae | HAL 8507 |
Liparis viridiflora Lindl. | Orchidaceae | HAL 8466, HAL 8582 |
Panisea yunnanensis S.C. Chen & Tsi | Orchidaceae | HAL 8560 |
Paphiopedilum dianthum Tang & F.T. Wang | Orchidaceae | HAL 8543, HAL 8588 |
Paphiopedilum henryanum Braem | Orchidaceae | HAL 8497 |
Paphiopedilum malipoense S.C. Chen & Tsi | Orchidaceae | HAL 8498 |
Paphiopedilum micranthum Tang & F.T. Wang | Orchidaceae | HAL 8504, HAL 8564, HAL 8594, HAL 8615, HAL 8653, HAL 8689 |
Paphiopedilum parishii (Rchb.f.) Stein ? | Orchidaceae | HAL 8475 |
Pholidota missionariorum Gagnep. | Orchidaceae | HAL 8531 |
Pholidota roseans Schltr. | Orchidaceae | HAL 8512, HAL 8614 |
Pholidota rubra Lindl. | Orchidaceae | HAL 8532, HAL 8578 |
Pholidota yunnanensis Rolfe | Orchidaceae | HAL 8465, HAL 8509 |
Pinus hwuangshanensis W.Y. Hsia | Pinaceae | HAL 8604, HAL 8679 |
Pinus kwangtungensis Chun ex Tsiang | Pinaceae | HAL 8595, HAL 8660, CBL 1792, NTH 6053, NTH 6074 |
Amentotaxus yunnanensis H.L. Li | Taxaceae | HAL 8641, HAL 8656 |
Taxus chinensis Pilg. | Taxaceae | HAL 8483, HAL 8566, HAL 8642, HAL 8661, HAL 8685 |
Burretiodendron hsienmu Chun & F.C. How | Tiliaceae | Quan sát ở thị trấn Đồng Văn |
Xyloselinum leonidii Pimenov & Kljuykov | Umbelliferae | NTH 3314 |
Xanthocyparis vietnamensis Farjon & Hiep | Cupressaceae | HAL 8464, HAL 8638, NTH 6027, NTH 6060, HAL 6085, NTH 6095 |
2. Đã thu được gần 40 loài Lan, tất cả đều trong những mảnh rừng Thông sót lại trên đường đỉnh. Những loài có giá trị nhất nêu trong Bảng. Đáng chú ý trong số này là đã phát hiện được 4 loài Lan hài: Lan hài xoắn-Paphiopedilum dianthum, Lan hai henri-P. henryanum, Lan hài xanh-P. malipoense và Lan hài mốc-P. micranthum, và có thể cả Lan hài xoắn lông rậm - P. parishii. Số lượng loài Lan hài này bằng với ở Khu Bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Bát Đại Sơn, chỉ khác ở đây có mặt P. dianthum còn ở KBTTN Bát Đại Sơn thay bằng P. hirsutissimum. Nếu so với kết quả kiểm kê Lan ở riêng KBTTN Bát Đại Sơn thuộc cao nguyên Quản Bạ, 119 loài thì số loài Lan ghi nhận ở cao nguyên đá vôi Đồng Văn mới chiếm khoảng 1/3. Nếu khảo sát kỹ hơn, ở nhiều điểm hơn và vào nhiều thời điểm khác nhau trong năm thì số loài Lan còn sót lại ở đây chắc chắn sẽ nhiều hơn nhưng chắc chắn không giàu bằng ở KBTTN Bát Đại Sơn vì môi trường sống của Lan ở đó chưa bị huỷ diệt trầm trọng.
3. Đã gặp một số loài thực vật hiếm của hệ thực vật Việt Nam. Đó là chi Bách vàng Xanthocyparis và loài Bách vàng việt-X. vietnamensis, chi và loài hiếm mới ghi nhận thêm ngoài KBTTN Bát Đại Sơn, nơi thu mẫu chuẩn ở lân cận, Bách xanh đá vôi-Calocedrus rupestris, không ít loài Lan như Bulbophyllum andersonii, Bulbophyllum emarginatum, Cheirostylis latipetala, Epigeneium labuanum.
4. Đã gặp một số loài, thậm chí chi và cả họ bổ sung cho hệ thực vật Việt Nam. Coriaria nepalensis thuộc họ CORIARIACEAE và Aletris stenoloba thuộc họ NARTHECIACEAE là 2 loài thuộc 2 chi và 2 họ bổ sung. Ngoài ra còn Brassaiopsis producta thuộc họ NHÂN SÂM ARALIACEAE và Thông hai lá đá vôi-Pinus hwuangshanensis thuộc họ THÔNG PINACEAE.
5. Chắc chắn phát hiện đáng ngạc nhiên nhất ở cao nguyên Đồng Văn là hai loài mới cho khoa học vừa được mô tả dựa trên mẫu vật thu trong một số mảnh rừng Thông sót lại trên đường đỉnh núi đá vôi ở xã Sủng Trà, huyện Mèo Vạc. Đó là hai loài cỏ sống nhiều năm, Epipactis alatus Aver. thuộc họ LAN và Thìa là gỗ leonid-Xyloselinum leonidii Pimenov & Kljuykov thuộc họ Thìa là Umbelliferae. Trước khi đến khảo sát chúng tôi ít hy vọng có thể tìm được các loài mới cho khoa học ở đây.
Để đánh giá tình trạng bị đe doạ tuyệt chủng của các loài thực vật ở cao nguyên Đồng Văn, trước hết cần so sánh với các kết quả xếp hạng của CITES và IUCN ở mức thế giới, sau đó là của Nghị định số 32/CP và Sách Đỏ Việt Nam ở mức quốc gia. Tất cả 4 loài Lan hài và một số loài Thông nêu trong bảng 1 đều nằm trong Phụ lục I của CITES, Nhóm IA của Nghị định số 32, thứ hạng CR hoặc EN của Sách Đỏ. Điều đó chứng tỏ chúng đều được yêu cầu bảo vệ ở mức cao nhất ở cả thế giới lẫn Việt Nam. Hầu hết các loài Thông (chỉ trừ Thông tre lá dài-Podocarpus neriifolius) và Lan còn lại đều ở mức thứ hai. Tuy nhiên khi xét hiện trạng bảo tồn trong các điều kiện cụ thể của cao nguyên đá vôi Đồng Văn thì chúng tôi thấy tất cả chúng đều đang bị đe dọa tuyệt chủng ở mức trầm trọng nhất (CR).
Kết luận
Mặc dầu chỉ còn sót lại rất ít và rải rác trong tình trạng kiệt quệ và khảo sát chưa đầy đủ nhưng trong các mảnh rừng trên đường đỉnh núi đá vôi ở cao nguyên Đồng Văn đã phát hiện được không ít loài thực vật đang bị tuyệt chủng trầm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là môi trường sống của chúng tiếp tục bị huỷ hoại chủ yếu do nạn chặt củi cùng lửa rừng. Do đó cần gấp rút bảo tồn nghiêm ngặt toàn bộ các mảnh rừng có giá trị bảo tồn kể trên cùng tất cả các loài sống trong đó. Để cho đề xuất này có thể trở thành hiện thực thì hai biện pháp cấp thiết và quan trọng hàng đầu là cần nhanh chóng trồng những khu rừng để bà con địa phương lấy củi cũng như kiểm soát chặt chẽ lửa rừng vào đầu mùa làm nương rẫy.
Tài liệu tham khảo
1. Averyanov L.V., 2006: Turzaninowia 9(3): 48-89.
2. Averyanov L.V., P.G. Efimov, 2006: Rheedea 16(1): 15-28.
3. Averyanov L.V., A. L. Averyanova, 2005: Turzaninowia 8(1): 39-97.
4. Averyanov L.V. et al., 2008: Taiwania 53(1): 11-22.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2007: Sách đỏ Việt Nam. Phần II- Thực vật. NXB. Khoa học tự nhiên và Công nghệ.
6. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, 2006: Nghị định số 32/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30 tháng 3 năm 2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
7. CITES, 2007: Convention on International Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora. Electronic database available at http://www.cites.org.
8. Farjon A. et al., 2002: Novon 12(2): 179-189.
9. IUCN, 2001: IUCN Red List Categories and Criteria: Version 3.1. IUCN Species Survival Commission. IUCN, Gland, Switzerland and Cambridge, UK.
10. Nguyễn Sinh Khang et al., 2007: Di truyền học & Ứng dụng 1: 24-28.
11. Nguyễn Tiến Hiệp et al., 1999: Di truyền học & Ứng dụng 3: 38-40.
12. Nguyễn Tiến Hiệp et al., 2007: Di truyền học & Ứng dụng 2: 26-30.
13. Nguyễn Tiến Hiệp et al., 2007: Báo cáo khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Hà Nội, 26/10/2007: 305-309. NXB. Nông nghiệp, Hà Nội.
14. Phan Kế Lộc et al., 1999 : Di truyền học & Ứng dụng số 4: 19-21.
15. Phan Kế Lộc et al., 2004: Báo cáo khoa học, Hội nghị toàn quốc 2004. Thái Nguyên 23-09-2004. NXB. Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội: 160-164.
16. Phan Kế Lộc et al., 2007: Di truyền học & Ứng dụng 3-4: 60-67.
17. Long V.N., L.A. Averyanov, 2002: Komarovia 2: 55-60.Pimenov, M.G. & E.V. Kljuykov, 2006: Komarovia 4: 124-132.
18. Phạm Văn Thế et al., 2007: Di truyền học & Ứng dụng 1: 36-41.
19. Wen J. et al., 2002: Adansonia, sér. 3, 24(1): 117-119.
Lời cảm ơn: Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Hội Địa lý quốc gia Hoa Kỳ, Quỹ Khoa học quốc gia Hoa Kỳ, Hội Lan Hoa Kỳ, Hội Lan San Diego, Hoa Kỳ, Tổ chức Động thực vật quốc tế, Chương trình Đông Dương, Chương trình nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên và Trung tâm Bảo tồn thực vật, Việt Nam đã tài trợ cho nghiên cứu này.
Nguyễn Tiến Hiệp, Nguyễn Sinh Khang, Phạm Văn Thế, Tô Văn Thảo
Viện ST&TNSV - Viện KH&CN Việt Nam
Averyanov L.V.
Viện thực vật Kômararốp, Viện Hàn lâm khoa học Liên Bang Nga
Nguyễn Quang Hiếu
Trung tâm Bảo tồn thực vật, Liên Hiệp các hội KHKT Việt Nam
Phan Kế Lộc
Đại học KHTN, ĐHQGHN
(Tuyển tập báo cáo Hội nghị Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 3, 22/10/2009 - Viên ST&TNSV - Viện KH&VN Việt Nam)